của mình với cha cô để thuyết phục cha cô chập nhận thay vì gạt bỏ nó...
đương nhiên nếu cô không phản đối.”
Cô Bellingham trầm ngâm nhìn tôi một hồi, rồi bật cười khe khẽ.
“Vậy ra cái ân huệ lớn lao mà tôi cần ban cho anh là để anh tiếp tục thực
hiện thêm những nghĩa cử cao đẹp nữa thông qua người bạn của anh!”
“Không!” Tôi phản đối, “Đó chính là điểm mà cô đang nhầm lẫn. Đây
không phải là bố thí, mà là niềm đam mê thuần thúy với chuyên môn của
Tiến sĩ Thorndyke.”
Cô mỉm cười vẻ hoài nghi.
“Cô vẫn chưa tin tôi.” Tôi nói, “Nhưng hãy thử xem xét một vài trường
hợp khác nhé. Tại sao một nhà phẩu thuật lai rời giường giữa đêm đông để
thực hiện một ca cấp cứu ở bệnh viện? Ông ta không được trả công cho
việc đó. Cô có nghĩ đó hoàn toàn là do lòng nhân đức?”
“Phải, dĩ nhiên. Không phải thế sao?”
“Chắc chắn là không. Ông ta làm thế vì đó là công việc, vì nghề nghiệp
của ông ta là chiến đấu với bệnh tật, và chiến thắng.”
“Tôi không thấy có sự khác biệt nào lớn lắm.” Cô nói, “Công việc đó
được thực hiện xuất phát từ tình cảm thay vì tiền bạc. Tuy thế, tôi sẽ làm
như anh yêu cầu nếu có cơ hội, nhưng tôi sẽ không coi đó là để trả ơn
những việc quá tử tế mà anh đã làm cho tôi.”
“Tôi không phiền đâu, miễn là cô giúp tôi việc đó.” Chúng tôi tiếp tục
bước đi trong im lặng.
“Chẳng phải rất kỳ quặc sao?” Cô bỗng cất tiếng, “Những cuộc tán gẫu
của chúng ta lúc nào cũng trở về chủ đề ông bác tôi. Oi chà, tự dưng tôi
nhớ ra những vật ông ấy để lại cho Viện bảo tàng cất cùng phòng với bức
phù điêu Ahkhennaten đấy, anh muốn xem không?”
“Đương nhiên là có.”