NẺO ĐƯỜNG MÒN này rõ ràng tồn tại chẳng vì lý do gì. Nó kéo dài một
trăm thước lên đến đỉnh đồi sau đó thoải dần. “Có một chỗ xả rác trái phép
trên đó, bị bỏ hoang từ lâu lắm rồi,” Weaver giải thích, chỉ tay lên trên đồi.
“Khi lên đó tôi chẳng thấy súc gỗ nào hết, nhưng lúc đi xuống thì lại thấy.
Ngay đây này.”
Nẻo đường mòn tự tạo dáng cột sống dốc, tỏa nhánh sang hai bên về
phía tây con đường cái, một đám cây mâm xôi mọc vắt ngang lưng đồi.
Weaver dẫn họ xuống nẻo đường mòn rộng cỡ một bàn chân, và kia, cách
đám cây mâm xôi bốn mét rưỡi, là bốn súc gỗ, mỗi súc gỗ dài ít nhất sáu
mét, đường kính năm hoặc sáu phân.
“Có vết sơn trắng trên mấy súc gỗ.” Cô ta nhìn Lucas. “Ngài từng nói
rằng chiếc Caddy đó có màu bạc, thưa ngài...”
“Đúng vậy,” Lucas nói. Anh quỳ xuống bên mấy súc gỗ, phát hiện
những vệt sơn màu bạc. Bob đang ở bên cạnh anh, lên tiếng, “Nhìn này”.
Lucas nhìn theo, Bob chỉ tay vào các vết rạch nằm ngang quanh các
súc gỗ. “Đấy là nơi chúng giằng xích, hoặc dây thừng để buộc các súc gỗ
vào với nhau.”
Lucas nhìn Weaver. “Cô giỏi lắm. Giỏi lắm. Cô nói có mấy vết lốp xe
à?”
“Vâng, thưa ngài. Có mấy vết còn mới trên này và dài khoảng một bàn
chân thôi, nhưng kẻ nào đó đã chạy thẳng vào lớp đất mềm hơn ở đây.”
Cô ta đưa tay chỉ, tất cả bọn họ cùng bò ra khỏi đám cây mâm xôi để
nhìn, vết lốp xe không hoàn toàn sạch sẽ: đám cỏ dại mọc tràn ra, nhưng
vẫn đủ nhìn rõ những dấu vết nếu chịu khó để ý. Cảnh sát trưởng nói, “Có
thể còn vài vết nữa ở đây...”. Họ phát hiện thêm vết tương tự dài sáu phân.
“Phải rà soát toàn bộ con đường này,” cảnh sát trưởng nói.
Lucas: “Tôi phải gọi điện thoại. Tránh xa hoàn toàn các súc gỗ ra, cả
cụm cây mâm xôi kia nữa, phòng trường hợp chúng để lại chút ADN nào
đó. Và cố gắng tránh xa lũ rắn khi làm việc trên đường mòn, để ý xem có