Bây giờ ta chỉ nói gọn là: “Tôi đã săn được con vật này, con vật nọ”, trái
lại người thượng cổ dùng điệu bộ kể lại từng giai đoạn của cuộc đi săn.
Ngôn ngữ của các điệu bộ thì vừa nghèo lại vừa giàu.
Giàu vì nó mô tả các đồ vật và các sự việc một cách đặc biệt sinh động.
Đồng thời nó lại nghèo vì không diễn đạt nổi những cái trừu tượng.
Với điệu bộ ta có thể chỉ mắt trái hay mắt phải, nhưng khó lòng diễn tả
được khái niệm “con mắt” nói chung. Các điệu bộ chỉ mô tả những vật cụ thể
là thích hợp nhất.
Ngoài ra, ngôn ngữ bằng điệu bộ còn nhiều nhược điểm khác.
Thí dụ, nó hoàn toàn mất tác dụng trong đêm tối. Trong bóng tối, làm
điệu bộ có ích gì, vì không ai trông thấy. Nhưng ngay giữa ban ngày sáng
sủa, thứ tiếng nói đó cũng không phải lúc nào cũng dùng được.
Nó có thể dùng được ở thảo nguyên, nhưng không có giá trị ở trong rừng,
vì cây cối che lấp người nọ với người kia.
Chính vì vậy mà những người thời tiền sử đã bắt buộc phải dùng đến
những tiếng nói có âm tiết.
Thoạt đầu cái lưỡi và cổ họng tỏ ra bướng bỉnh không ưa công việc mới
mẻ này. Các tiếng phát ra lẫn lộn, gồm thành nhiều tiếng ú ớ. Phải trải qua
một thời gian, con người mới uốn nắn cho lưỡi mình phát âm rõ dần.
Các cử động của lưỡi trong mồm thì không trông thấy được như các điệu
bộ, nhưng lại có cái lợi là người ta nghe được tiếng nó phát ra.
Trong ngôn ngữ dân tộc Ê-vê, người ta không chỉ dùng một từ “Đi” mà
lại dùng nhiều từ khác nhau: “Dô dê dê” là đi một cách vững vàng; “Dô bô
hô bô hô” là đi nặng nề, phục phịch như người bụng to; “Dô bu-la bu-la” là
đi nhanh bừa đi; “Dô pi-a pi-a” là đi rón rén; “Dô gô-vu gô-vu” là đi hơi
khập khiễng, đầu cúi về trước, v.v...
Mỗi một từ ngữ đó đồng thời là một bức tranh vẽ ra bằng tiếng động, mô
tả từng chi tiết của dáng đi. Người ta còn dùng những từ khác nhau để chỉ