nó kể với bố nó. Nhưng tiếp đó thì bắt đầu trục trặc. Chẳng hạn đã nhìn thấy
bờ. Họ so về nhà họ. Bố cũng sẽ về nhà. Vợ và hai con nhỏ đã chờ trên bờ.
Làm thế nào đây ? Có đi với bố không ? Bố có cho nó về theo không ? Nếu
có thì bà vợ sẽ hỏi : « Thằng bé nào đấy, nó ở đâu ra, đem nó về làm gì ? »
Không, không đi theo là hơn …
Con tàu trắng mỗi lúc một rời xa, biến thành cái chấm khó nhận thấy. Vầng
dương đã ngả mình xuống mặt nước. Qua ống nhòm, thấy mặt hồ ngời lên
một màu hoa cà chói rực.
Con tàu đã đi hẳn, đã khuất dạng. Thế là hết câu chuyện hoang đường về
con tàu thủy trắng. Phải về nhà thôi.
Thằng bé nhặt chiếc cặp dưới đất lên, kẹp cái ống nhòm dưới nách, nó lao
nhanh xuống núi, thoăn thoắt như rắn lướt trên sườn dốc. Càng về gần đến
nhà, trong lòng càng lo tợn. Sẽ phải chịu trách nhiệm về chiếc áo bị con bê
nhá rách. Không còn nghĩ đến chuyện gì khác nữa, ngoài sự trừng phạt sắp
tới. Để khỏi mất tinh thần, thằng bé nói với chiếc cặp : « Mày đừng sợ.
Chúng ta sẽ bị mắng đấy. Nào tao có cố ý đâu. Chẳng qua là tao không biết
con bê đã chạy đi đấy thôi. Tao sẽ bị bợp gáy cho mà xem. Tao chịu đựng
được. Còn nếu mày bị quẳng xuống sàn thì mày cũng đừng sợ. Mày không
thể vỡ được, mày là cái cặp mà. Nhưng nếu chiếc ống nhòm lọt vào tay bà
thì khốn cho nó. Vậy chúng ta hãy giấu chiếc ống nhòm vào nhà kho đã, rồi
ta hãy về nhà… »
Nó làm đúng như thế. Nó sợ hãi bước qua ngưỡng của.