thể sang được bờ bên kia, tốt hơn hết là chuyên chở từ mùa thu. Và một thời
gian lâu sau đó, người ông toả ra mùi phấn cỏ đăng đắng.
Ông đặt cháu ngồi lên mông ngựa ở phía sau, và hai ông cháu đi về
nhà, ngựa khi thì phi nước kiệu đường trường, khi thì bước một, hai ông
cháu khi thì im lặng, khi thì nói với nhau một chuyện gì không đâu, và về
tới nơi lúc nào không hay. Qua cái đèo yên ngựa giữa những trái núi nhỏ,
hai ông cháu xuống hẻm Xantasơ về nhà mình.
Thằng bé say mê trường học quá đỗi khiến cho bà nó tức tối. Vừa thức giấc
là nó mau chóng mặc quần áo và xếp sách vở vào cặp. Bà lão còn cáu về
việc ban đêm nó đặt chiếc cặp bên mình. “Sao mà mày gắn bó với cái cặp
khốn kiếp ấy thế? Mong sao nó thành vợ mày thì tốt, chúng tao khỏi tốn
tiền dẫn cưới…” Thằng bé bỏ ngoài tai những lời của bà, vả chăng nó cũng
chẳng hiểu rõ lắm bà nói thế là ý làm sao. Đối với nó, điều quan trọng nhất
là đừng đi học muộn. Nó chạy ra sân giục ông. Chỉ khi nào trông thấy ngôi
trường, nó mới yên tâm.
Thế mà có lần hai ông cháu vẫn đến muộn. Tuần trước, tảng sáng ông già
Mômun cưỡi ngựa sang bên kia sông. Ông định chuyên chở một chuyến cỏ
khô từ sáng. Mọi việc lẽ ra sẽ ổn cả, nhưng giữa đường bó cỏ xổ ra, cỏ rơi
tung toé. Phải bó lại tất cả, lại buộc lên lưng ngựa. Vì làm vội, bó cỏ lại xổ
tung ra ở ngay bờ sông.