không mỏi, không mệt, đến nỗi biến thành một phần tử kiến trúc trong khu
đền này.
Thời đó, quan niệm xây đền không xây cao, mà chỉ xây theo chiều ngang,
sân này nối sân kia, đền này tiếp theo đền khác, hồ nước lại nối hồ nước.
Các sân thường rất lớn, có khi trơ trụi lát gạch, có khi có tượng voi, chiến
sĩ, tượng tướng giữ trận, quan lại đứng chầu với hia và mũ, cầm hốt trong
tay.
Giữa các sân trống trải đó, người ta xây đền với các mái bằng ngói dẹp.
Bóng mặt trời buổi trưa che mất cột, kèo, cửa ngõ, làm người ta có cảm
tưởng các mái vĩ đại đang nổi lờ đờ trong không.
Oanh chỉ có một mình trong sân gạch, đứng cách anh lính 8 thước (khi
Oanh gặp tôi nàng cũng đứng cách tôi 8 thước). Nàng giữ ý tứ và ngạc
nhiên vì sự có mặt của anh lính trong khung cảnh trầm lặng của rừng nhãn,
inh ỏi của đàn ve, và cổ kính của đền đài. Đôi mắt tím than của Oanh dò xét
anh lính. Anh ta vẫn đứng yên. Nàng tiến lại gần thêm chút nữa, ngắm
nghía, đắn đo. Khoảng cách này thực hợp để chụp hình anh lính. Mấy ngón
tay trắng trẻo của Oanh loay hoay vặn máy. Đó là một cái máy chụp ảnh
vuông như cái hộp, bọc da đen. ống kính đủ sáng để chụp hình đẹp trên
phim bằng kính mỏng. Oanh nhân tiện ngắm anh lính qua máy ảnh. Anh ta
đội cái mũ làm bằng đồng, 4 mảnh đồng được nối vào nhau bằng sợi dây da
trâu. Như mọi tất cả các anh lính khác thời đó, anh ta mặc một cái áo nâu
đỏ, một cái quần trắng, bắp chân bó bằng vải đỏ. Một cái áo giáp bằng da
trâu che ngực và lưng anh ta. Trên trán có tràm ba chữ "cảm tử quân".
Anh lính liếc nhanh nhìn Oanh, còn nhanh hơn cả máy chụp hình, anh ta đã
nhận thấy rằng mũi Oanh cao và thẳng, khác hẳn các cô gái mũi tẹt mà anh
quen, và đôi môi hồng, làn da trắng, làm tăng cái duyên sẵn có của Oanh,
khác mầu da bánh mật mà anh thường gặp. Anh ta biết rằng qua đôi mắt
tím đen kia hình ảnh của anh đã lọt vào tận đáy mắt Oanh, như một sự đụng
chạm cụ thể. Trong vài giây, Oanh bối rối, nhưng nàng lại tự chủ được