ngay. Nàng lại trở thành một khách du lịch đi ngoạn cảnh các đền đài cổ.
Tấm hình được đăng trên một tuần báo văn chương. Bây giờ tôi còn giữ
một bản, nhưng tấm ảnh hình như cũ hơn một thế kỷ, mái ngói đã xiêu vẹo,
các tượng thì sứt mẻ, có cái mất đầu, mất tay. Gạch trong sân đã phủ rêu và
vài chỗ ngập cỏ dại. Binh phục của anh lính thì vá víu nhiều chỗ, cây giáo
cũng mất mũi nhọn. Nhưng bọn ve sầu vẫn ca hát, qua tấm hình, y như buổi
chiều mà tôi ngồi chờ đợi Oanh tới. Tôi để đàn ve ru tôi vào tiếng ếch nhái,
châu chấu, dế mèn, mà cánh đồng quê này có rất nhiều.
Đêm nay, năm cũ qua năm mới, tôi lắng nghe Oanh kể chuyện anh lính thú
đời xưa. Rượu nồng đã cạn, pháo còn lác đã nổ đâu đây. Tôi nói với Oanh
rằng sự gặp gỡ anh lính thú là điềm báo hiệu sự gặp gỡ giữa nàng và tôi.
Oanh kéo tay tôi đứng dậy:
- Thôi, đừng nói nữa. Ra nhẩy đi anh!
Tôi đứng lên, ôm Oanh vào tôi. Tôi tưởng tượng như tôi là anh lính. Dẫu
rằng nếu anh ta ở đây, anh rất có thể nhẩy với Oanh, uống và hát với Oanh,
rồi sẽ yêu Oanh như tôi đang yêu nàng.
*
* *
Mùa thu đến với lá vàng xào xạc trên mặt đường vắng. Những lá nhỏ còn
xanh tấp tới như một tấm mành treo trên nền trời xanh biếc. Con ve sầu khi
ca hát suốt cả mùa hè bây giờ run rét trong một cái sân vắng teo. Nó rơi vào
cái sân này vì kiệt sức và đói khát, thất vọng vì thiếu mặt trời, nhớ tiếc thời
huy hoàng nhẩy múa đã qua. Mỗi lần lướt bên tai ve sầu, gió thu lại hỏi:
- Hỡi cô gái đẹp! Cô bao nhiêu tuổi?
- 18 tuổi, ve sầu trả lời. Tôi đói và khát!
Nhưng gió đã đi nơi khác, leo qua tường đá tổ ong, len lỏi vào lá cây dây
leo. Gió sẽ trở lại, và sẽ hỏi ghẹo hoài cô gái. Gió thu lạnh, mây thu xây