đôi mũ rơm, có duyên, làm Oanh xiêu lòng. Anh ta nhìn qua cửa kính, về
phía công viên đầy ánh nắng và bóng râm của các cây bàng, có hoa râm bụt
đỏ thắm, có chuồn chuồn bay nhẹ, và có tôi đang nấp sau gốc cây cùng cái
valy.
Oanh đưa tài liệu du lịch, giảng giải cho anh kỹ nghệ gia. Anh ta nói:
- Tôi muốn thăm các đền đài cổ kính.
Và anh ta đọc thơ Thanh Quan:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Vô tình tôi cũng ngâm câu thơ đó trong khi tôi đẩy cửa bước vào.
- Ông có xe hơi không? Nàng hỏi anh khách du lịch mà không nhìn tôi.
- Không, tôi đến đây bằng xe đò. Tôi tìm một khách sạn.
- Tôi có nhiều cuộc thăm viếng, có cả người chỉ dẫn đi theo.
Ba giờ trưa nay có một chuyến đi thăm thành Cổ Loa.
Oanh nhìn tôi kỹ hơn, nhưng không nhận ra tôi. Vì tôi chỉ là một nhân vật,
chứ không phải là người thực, thay đổi hình dáng tuỳ theo ý của tác giả, mà
tác giả lại là Oanh. Nàng mỉm cười, giống như cái mỉm cười nàng cho tôi
khi chúng tôi ngủ trưa, trên cái giường lớn chìm trong bóng râm của căn
phòng cửa sổ đóng, chúng tôi tìm nhau không nói, mỗi người chờ đợi sự
khoái lạc sẽ tràn ngập thân thể mình. Tôi muốn nói tôi là Đởm, đang đi tìm
nàng, nhưng lại thôi, tò mò xem nàng sẽ làm gì. Các khách du lịch tới đông,
ồn ào. Một cô gái tới làm phụ Oanh. Tôi ra khỏi cơ sở, tay cầm cái valy.
Tôi bắt gặp Oanh nhìn theo tôi trong khi tôi đi về phía bến xe đò.
*
* *
Anh kỹ nghệ gia – về sau tôi biết tên anh là Khanh – đầu đội mũ rơm, áo
quần trắng tinh, ngừng cái xe không mui trước cửa nhà Oanh, trước cửa
đền Hàng Trống, Hà Nội, khi khói hương bay tản mát khắp phố, các bà xì
sụp khấn lễ, xin thẻ, xin lộc, đầy ra tận hè đường.
Oanh và Khanh đã đi du lịch khắp mọi nơi, tôi đã đi theo họ, tay cầm cái
valy, từ tỉnh này qua tỉnh khác, khi mất dấu vết họ, khi lại tìm thấy, kín đáo