đó làm ngày giỗ. Không biết là từ khi nào bà của chúng tôi đoán biết được
chuyện xảy đến trong tương lai qua giấc mơ.
Vào lúc nửa đêm, bà nghe thấy tiếng ho quen thuộc của ông liền mở cửa
phòng ra. Ánh trăng rọi xuống khu vườn sáng trắng còn ông thì đứng giữa
vườn với bộ quân phục lính rách bươm. Khi bà hỏi “Ông đi từ đâu về đấy?”,
ông đáp, “Tôi đi qua Mukho, Gangnung, vượt qua hai mươi cái núi mới về
được đến đây.”. “Ông đeo cái cái túi gì bên cạnh sườn vậy, thôi cứ để nó ở
đầu hè ấy rồi vào trong nhà để tôi dọn cơm lên.”. “Tôi phải đi xa lắm.”. Ông
nói, không hề cởi giày ra mà cứ đứng nguyên như thế. Bà thấy vậy liền tháo
cái túi vải của ông ra để xuống thì thấy ông từ từ biến mất chỉ còn lại cái sân
trống không. Bà giật mình tỉnh dậy sờ quanh thì đụng phải cái gì đó dưới
đầu. Bà thắp đèn lên quan sát, thấy cánh cửa tủ bị mở ra và quần áo bị rơi
vãi ra ngoài. Đó chính là bộ quần áo bông và cái áo gi-lê dệt bằng lông thỏ
ông để lại khi đi bộ đội. Đêm đó bà vội vã sắp chai rượu, cá khô và ít hoa
quả làm lễ cúng ông giống như một lễ cúng tổ tiên đơn giản rồi mang quần
áo của ông đi đốt.
Ngày thường thỉnh thoảng bà cũng tận mắt nhìn thấy ma, nghe thấy cả
tiếng bọn chúng trêu chọc, đùa cợt và nói chuyện với nhau. Hồi bố tôi còn
bé, vào sáng sớm bà còn múc nước ở cái giếng sau nhà để mang lên cúng
thần thiên địa. Sau khi nhà nước cấm không cho làm chuyện đó nữa, bà
không cúng bên ngoài mà ngồi xổm giữa ngăn bếp chắp hai tay lại, thành
tâm khấn vái. Bố mẹ tôi mới đầu còn ngăn bà rồi cũng chỉ vì cái việc cúng
bái ấy mà hai người cãi cọ nhau.
“Sao cô không ngăn mẹ làm cái việc mê tín ấy đi hử?”
“Ối giời, tôi ngăn mà mẹ chịu nghe à, mẹ cứ nói là nhìn thấy ma quỷ nghe
đã thấy sợ rồi, giờ đây tôi cũng chẳng dám nói nữa. Mà này… có phải là di
truyền của nhà anh không đấy?”
“Cô nói sao, di truyền cái gì?”
“Từ thời bà cụ cố nhà anh đã chẳng làm trò lên đồng ở Hamhung đấy
thôi.”