Ông Ashok ngả người ra sau và hỏi bà Pinky, “Em có nghe những câu trả
lời của cậu ấy không?”
“Nó nói đùa đấy hử?”, bà hỏi, và tim tôi đập nhanh hơn, như vẫn thế mỗi
lần nghe bà nói ra điều gì.
“Không. Cậu ta thực sự cho rằng đấy là những câu trả lời đúng”.
Bà bật cười khi nghe điều đó, nhưng khuôn mặt ông ấy, tôi nhìn thấy trên
kính chiếu hậu, rất nghiêm túc.
“Vấn đề là, cậu ta hình như chỉ có... bao nhiêu, hai, ba năm đi học? Cậu ta
biết đọc biết viết, nhưng không hiểu những gì mình đọc. Cậu ta còn nửa vời
lắm. Anh nói cho em nghe, đất nước này đầy rẫy những người như cậu ấy.
Và chúng ta thì lại đặt niềm tin vào nền dân chủ nghị viện vẻ vang của
chúng ta” - ông chỉ tay vào tôi - “vào những nhân vật như thế này. Đó là
toàn bộ bi kịch của đất nước chúng ta.”
Ông thở dài.
“Được rồi, Balram, cho xe chạy tiếp.”
Tối hôm đó, tôi nằm trên giường, trong chiếc màn ngăn muỗi, nghĩ về
những lời của ông ấy. Ông ấy đã đúng, thưa ngài - tôi không thích cách ông
ấy nói về tôi, nhưng ông ấy đã đúng.
“Tự truyện của một người Ấn Độ Nửa Vời”. Tôi nên đặt tên cho câu
chuyện đời mình như thế.
Tôi, và hàng nghìn kẻ khác giống tôi trong đất nước này, rất nửa vời, vì
chúng tôi chưa bao giờ được học hành đến nơi đến chốn. Mở hộp sọ chúng
tôi ra, dùng một cây đèn pin nhỏ rọi vào, ngài sẽ thấy một bảo tàng ý nghĩ
kì dị: những câu văn về lịch sử hoặc công thức toán thuộc lòng từ sách giáo
khoa (không đứa bé nào nhớ về thời cắp sách bằng những đứa bị buộc thôi
học, tôi cam đoan với ngài như thế), những câu văn chính trị đọc trên báo
trong lúc chờ gặp ai đó tại văn phòng, những hình tam giác và hình chóp