khúm núm bên cạnh nói, “Xin lỗi ngài, xin lỗi ngài.”
“Lớp học không có giẻ lau bảng, không có ghế, không có đồng phục cho
nam sinh. Mi đã ăn cắp bao nhiêu tiền từ nguồn quỹ trường, hả tay khốn
nạn kia?”
Ông thanh tra viết bốn câu văn lên bảng rồi chỉ gậy vào một học sinh:
“Đọc.”
Mấy đứa con trai lần lượt đứng dậy, hấp háy mắt nhìn lên bảng.
“Dạ thưa, ngài thử gọi Balram xem,” thầy giáo nói. “Em ấy sáng dạ nhất
lớp. Em ấy đọc rất thạo.”
Vậy là tôi đứng lên, dõng dạc đọc, “Chúng ta sống trên một xứ sở vẻ vang.
Đức Phật đã đắc đạo tại xứ sở này. Hằng Hà đem lại sự sống cho cây cối,
động vật và con người chúng ta. Chúng ta biết ơn Thượng đế vì chúng ta
được sinh ra trên xứ sở này.”
“Tốt,” ông thanh tra nói. “Vậy ai là Đức Phật?”
“Một người giác ngộ ạ.”
“Một vị thần giác ngộ.”
(Má ơi! Ba mươi sáu triệu lẻ năm...!)
Ông thanh tra kêu tôi viết tên mình lên bảng; đoạn đưa đồng hồ đeo tay cho
tôi xem và bảo tôi đọc giờ. Ông móc ví của mình, lấy ra một tấm ảnh nhỏ,
rồi hỏi tôi, “Người này là ai, người quan trọng nhất trong cuộc đời tất cả
chúng ta là ai?”
Đó là tấm ảnh của một người đàn ông tròn trịa với mái tóc bạc trắng tua tủa,
hai má phúng phính, đeo hai cái khuyên tai bằng vàng dày cộm; khuôn mặt
bừng sáng trí thông minh và lòng nhân ái.
“Đó là Đảng viên Đại Xã hội ạ.”