từ các cơ sở sản xuất khác. Những người này không có sự lựa chọn nào
khác là hoặc nhận tiền cứu tế hoặc chuyển sang làm một người lao động
bình thường, mà theo tập quán họ bị đánh giá kém hơn khi làm những việc
không giống như công việc họ đã làm trước đó. Vì vậy họ thường chấp
nhận tiền cứu tế xã hội.
Điều gì cản trở sự giao lưu tự do của lao động từ một công việc này
sang một công việc khác thì cũng cản trở sự giao lưu tiền vốn. Số lượng
tiền vốn mà có thể được sử dụng ở một ngành kinh doanh nào đó tùy thuộc
rất nhiều vào số lượng người lao động có thể được sử dụng ở ngành đó.
Tuy nhiên, các luật lệ của phường hội cản trở việc giao lưu tiền vốn từ nơi
này đến nơi khác ít hơn là cản trở việc giao lưu lao động. Một người buôn
bán giàu có sẽ giành được sự ưu đãi về mặt kinh doanh ở thành phố đã có
phường hội dễ hơn nhiều so với một thợ thủ công nghèo muốn đến tìm việc
làm ở đó.
Tôi tin rằng bất kỳ ở nơi nào trên đất Âu Châu, luật lệ phường hội
cũng ngăn cấm sự giao lưu tự do của lao động. Luật về người nghèo cũng
ngăn cản giao lưu lao động. Đó là đặc trưng của nước Anh. Người nghèo
rất khó tìm chỗ định cư, thậm chí rất khó xin phép hành nghề ở bất kỳ xứ
đạo nào khác ngoài xứ đạo nơi mình đang sống. Các luật lệ phường hội chỉ
ngăn cấm sự lưu thông tự do đối với lao động của thợ thủ công và thợ chế
tạo. Khó khăn trong việc tìm được một nơi an cư lập nghiệp cản trở cả việc
lưu thông lao động bình thường. Cũng nên kể lại đây tình trạng hỗn loạn
này ở nước Anh.
Khi các tu viện bị phá bỏ, người nghèo không còn nơi nương tựa mà
lòng từ thiện của các cơ sở tôn giáo mang lại cho họ. Sau những mưu toan
không có hiệu quả nhằm cứu giúp người nghèo, đến năm 43 thời nữ hoàng
Elizabeth đã được công bố một đạo luật buộc mỗi xứ đạo phải có trách
nhiệm trông nom và cung cấp cho những người nghèo thuộc quyền cai
quản của mình, và một viên giám thị trong coi những người nghèo được cử
ra hàng năm để cùng với viên quản lý tài sản của giáo hội tạo nên những
khoản tiền cần thiết cho việc làm đó.