đuổi phải tắt đèn.
Andrews đang cố sức chèo mạnh mái chèo, nhưng khoảng cách từ chúng
tôi tới bãi biển chỉ gia tăng một cách vô cùng chậm. Chiếc xuồng như bị ai
kéo trì lại. Xuồng cao su là loại nặng nề khó chèo hơn hết. Nhất là khi phải
chở tới ba người, thì lại càng tệ hơn nữa.
Tôi cởi đôi giày và chiếc quần tây dài cùng áo choàng. Tôi chèo ra khỏi
xuồng, xuống dưới nước và bắt đầu đẩy vào đuôi xuồng hình tròn. Tôi đạp
thật lâu vào đáy biển đầy cát. Được mấy bước, đáy biển thụt sâu và tôi tiếp
tục đạp chân trong nước, cố giữ cho những chiếc đạp của tôi ăn nhịp với
hai mái chèo. Chúng tôi bắt đầu di động nhanh hơn một chút. Nước biển
lạnh như nước đá, nhưng mấy giây sau nó làm cho tôi tê cóng và tôi không
còn cảm thấy quá lạnh nữa. Một cơn mưa lất phất đang khởi sự rơi. Đây là
một cơn mưa rào thường xuyên trong vùng. Chỉ cách hơn một trăm thước,
trời lại quang đãng.
Andrews chợt quay đầu lui, gọi:
- Cô Ménard, cô hãy bước qua mái chèo bên phải của tôi, vào trong
khoang. Rồi cô nằm xuống và níu lấy tay Dunbar để giúp ông ấy thêm
vững.
Mấy giây sau, tôi trông thấy khuôn mặt xanh xao hình trái xoan của nàng
ngay phía trên mặt tôi và cảm thấy hai bàn tay nàng nắm chặt hai cổ tay tôi.
Nàng nằm sát người lên khoang, cằm kê lên mạn xuồng cao su. Nàng mỉm
cười với tôi. Tôi đạp mạnh hơn, cố trồi lên cao để hôn chóp mũi của nàng.
Nàng bật cười thành tiếng.
Andrews lại bảo:
- Hãy nép sát xuống, để tránh đạn.
Quả thật súng lại nổ, nhưng lần này từ phía bãi biển. Bây giờ hai khẩu bốn
mươi ly đã ngừng bắn, các toán quân truy kích đã phỏng đoán chúng tôi
hiện ở đâu. Bọn chúng không thể trông thấy chúng tôi, nhưng dù chúng bắn
phỏng chừng đi nữa chúng tôi vẫn nơm nớp lo sợ. Tôi nghe tiếng những
đầu đạn rơi lõm bõm xuống nước. Chỉ cần lãnh phải một viên cũng đủ mệt
rồi.
Đúng lúc tôi nghĩ như thế, chúng tôi bỗng bị soi sáng bởi một ngọn đèn