truyền đơn bay lơ lửng trắng xóa, một vài tờ rơi vào xóm đồng muối,
nhưng chẳng một ai nhặt. Đất làng Kiều sau lần chiến tranh trước, đã chai
lại. Những hố bom được lấp kín. Nhà lại dựng. Trên các dải đồng, lúa
chiêm lên xanh kín bờ, lúa chiêm đang phất cờ lên. Mặc dầu địch ra sức
quấy phá cả ngày đêm, guồng máy làm việc ở hậu phương vẫn chạy đều.
Trong làng vẫn náo nức hướng về tiếng súng ngoài tiền tuyến. Mọi người
đang ra sức làm việc. Mọi việc hình như đều mới bắt đầu.
Ông Vàng đã nhận chức bí thư Đảng ủy xã, thay cho đồng chí cũ trở
lại bộ đội. Ăn tết Nguyên Đán xong, ông Vàng vẫn cái dáng tất tưởi, vội vã,
thu xếp cho đợt thanh niên nghĩa vụ lại sắp lên đường. Bây giờ đi dạo một
vòng qua các xóm, gặp đàn bà và trẻ con là nhiều, cả lớp con gái đang "thì
ăn thì sức" cũng đi dân công hỏa tuyến, đi thanh niên xung phong, đã vãn.
Cô Tốt đã giao cửa hàng cho một chị có con mọn trông. Tốt xung phong đi
dân công mở đường đợt sáu tháng, tận miền tây khu Bốn. Trước hôm đi,
Tốt vào chào chị Quý. Chưa bao giờ người trong làng thấy Tốt hát và cười
nhiều như thế.
Bên kia sông Kiều, tiếng máy tàu chiến trở nên quá quen thuộc với
mọi người, như tiếng xay lúa, giã gạo hàng ngày. Đêm đêm, nghe tiếng còi
tàu rất trầm, như tiếng gọi đất liền thốt lên từ ngoài khơi, mọi người đều
thức giấc. Thùy đang ngủ vội vàng ngồi dậy và hướng về phía cửa sông.
Bác Thỉnh cũng giật mình hỏi: "Tàu vào đấy hả cô?". Những lúc ấy, sau
giấc ngủ chợt tỉnh, hai người đều nghĩ đến những người chiến sĩ đi chiến
đấu trở về; hai người đều chợt nghĩ đến Bân, mỗi người mang một niềm
mong nhớ riêng.
Một buổi sáng đầu tháng hai, Thùy đi họp trên phòng giáo dục huyện
về, xách một bọc sách nặng. Cô về đến khúc đê lượn bên kia sông thì gặp
Liên đang ngồi trong một cái túp trông vó bè, đợi đò. Liên vẫn mặc bộ
quân phục tím nhưng đã hơi cũ. Trông thấy Thùy, Liên vội kêu lên:
- Thật là may quá, mình đang chờ đò để sang bên làng cậu.