trong xóm thấy thế cũng kéo nhau ra ở. Những người nghèo tựa vào nhau
mà sống. Nhiều nền nhà, vườn tược tụ lại thành một cái xóm. Con người ta
cắm hai bàn chân xuống đất thật là chặt! Trong mấy chục năm, hết hương
lý đến nhà giàu cắm nhà cắm đất, những lần nước biển dâng cuốn sạch hết
nhà cửa, những năm kháng chiến địch bắt bớ, giết chóc, đốt phá...; cuối
cùng mọi biến cố chẳng khác gì những lớp sóng dâng lên rồi lại rút đi, cái
xóm mới ngày một vững như gốc cây cổ thụ đã cắm chặt rễ xuống đất
không gió bão nào xô ngã được nữa.
Trong những buổi nói chuyện trên huyện hoặc trên tỉnh, Lâm hay nhắc
đến cái xóm nhà mình. Một cái xóm cỏn con, chưa đầy bốn chục nóc nhà,
bốn bề trống huếch trống hoác thế mà suốt mười năm kháng chiến không
một trận càn nào cơ sở bị vỡ. Người trong xóm đi bộ đội, đi làm cán bộ
thoát ly cũng nhiều. Lâm được giác ngộ cách mạng sớm, đã từng tham gia
Việt minh bí mật và lãnh đạo cướp chính quyền ở xã mình. Lúc xảy kháng
chiến toàn quốc thì khu điều Lâm đi công tác nơi khác, cho đến hòa bình
Lâm mới được về gần nhà.
Từ ngày hòa bình, mỗi khi về làng, bước chân đến trước xóm đồng
muối, Lâm rất lấy làm tự hào về quê hương, nhưng không lần nào Lâm
không thấy chạnh lòng về việc riêng. Hàng chục năm qua, cái vết thương
trong lòng ông mà chính ông đã gây ra lại nhói lên. Mỗi lần tự nhận xét
một cách nghiêm khắc, Lâm tự thấy mình là một cán bộ tận tuỵ, trung
thành với Đảng, đã đem hết sức mình vào sự nghiệp cách mạng chung,
nhưng đối với gia đình, đối với ông cụ Lâm và bác Thỉnh, Lâm lại thấy
mình có biết bao nhiêu là thiếu sót. Điều đó làm cho Lâm vô cùng áy náy,
không nguôi được.
Từ trước đến nay, mỗi khi về làng, Lâm thường ở nhà bác Thỉnh, thỉnh
thoảng mới sang bên nhà chị Quý. Hôm ấy, Lâm dắt xe thẳng theo con
đường đê khấp khểnh về thẳng xóm đồng muối. Lâm đi qua những trạt sân
phơi phẳng lỳ, rộng và vắng. Đầu con ngòi dẫn nước mặn từ ngoài biển