bãi bể nương dâu:bởi chữ tang thương: tang là cây dâu, nương trồng dâu.
Thương là bể khơi, bãi bể. Sách Liệt-tiên-truyện chép: Bà Ma-cô tiên-nữ đã
nói bà từng thấy một nơi kia đám nương trồng dâu đã ba lần hóa thành bể
khơi, bãi bể v. v...Ý nói sụ thay đổi nơi trần thế nhiều lần. Tang-hải-Tang-
thương- Bãi bể nương dâu- Bể dâu, đều nột nghĩa.
bể khổ: bởi chữ khổ-hải. Tiếng nói của nhà Phật, ví sự khốn-khổ mênh-
mông vô cùng như bể vậy.
bến mê:bởi chữ mê-tân, nhà Phật nói: sự ngờ vực ở nơi tam giới và lục đạo
thì gọi là Mê-tân, bến lạc đường phải nhờ thuyền Từ-bi của Phật mới đưa
vào đến bến.
Mùi tục-vị lưỡi tê tân-khổ: có bản chép"tục-lụy" e sai vì "tục vị" mới đối
với "thế đồ" (vị: mùi ; đồ: đường).
bào ảnh: là cái bọt cái bóng. Kinh Kim-cương bát nhã nói: nhất thiết hữu
vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ riệc như điện, ưng tác như thị
quan nghĩa là : hết thảy những điều có làm, có bắt chước thảy là như giấc
chiêm bao, như chuyện huyền-ảo, như bọt nước, như bóng đèn, như giọt
móc và cũng như ánh sáng của chớp-nhoáng, thì hết thảy nên xem như vậy
cả. Ý nói những sự hiện hữu trên đời đều không được lâu bền.
Trẻ tạo-hóa: bởi chữ tạo-hóa tiểu-nhi, trẻ nhỏ tạo-hóa, lời nói bỡn gọi ông
trời bằng trẻ con; bởi điển ông Đỗ thẩm Ngôn đời Đường, khi đau nặng,
bọn ông Tống chi Vấn vào thăm, Đỗ thẩm Ngôn nói rằng :"Ngao ngán thay
trẻ tạo-hóa làm ta nên khổ-sở..."
Chết đuối người trên cạn:bởi chữ Lục-trầm. Lục là trên cạn. Trầm là chìm
đắm, Trang tử nói: không thèm đi chung với đường đời gọi là chết đắm trên
cạn. Đây dùng ý không hạp với tình đời.
Lò cừ: là cái lò lớn, bởi chữ ở bào phú của ông Giả Nghị có câu :
Thiên-địa vi lô hề, tạo-hóa vi công
nghĩa là:
Trời đất làm cái lò, mà đấng Tạo-hóa làm thợ để đúc nặn ra muôn vật.
vân-cẩu: là mây chó, thơ Đỗ Phủ:
Thiên thượng phù-vân như bạch y,
Tu tư hốt biến vi thương cẩu