Hán Cao-tổ có lời ví diện mạo: Long-chuẩn, long nhan, mũi rồng, mặt rồng
mặt trời gang tấc:bởi chữ Chỉ-nhan, Tả Truyện: "Thiên oai bất vi nhan chỉ
xích": oai trời không xa trái nơi gang tấc. Ấy nói oai vua chỉ ở gần kẻ bày
tôi. Đây dùng ý nói dối vua rất gần.
Chữ xuân riêng: Kinh Thi, thiên Thiện-nam: "Hữu nữ hoài xuân, cát sĩ dụ
chi":
Co gái nhớ tình xuân, kẻ trai tài dỗ-dành đó.
Về sau trai gái có tình yêu mến nhau gọi là "xuân riêng". Phàm con gái đến
17,18 tuổi biết tình yêu con trai gọi là "xuân-ý", "xuân-tình", "hoài-xuân",
"tư-xuân".
hương-lửa: bởi chữ hương-hoả. Ngày xưa mỗi khi trai gái thề nguyền sự
nhân duyên phối ngẫu, thường dùng hương lửa cúng vái quỉ-thần mà thề
nguyền, nên nhân duyên cũng gọi là hương lửa.
Xe dê:bởi chữ Dương xa. Tấn-thư chép : vua Võ-đế có lắm cung nhân, mỗi
khi muốn đến với cung nhân nào vua ngồi trên xe nhỏ khảm châu-ngọc có
con dê kéo, để tuỳ ý dê muốn vào cung-điện nào ; cho nên những cung-
nhân thường lấy nước muối, rắt ở cửa viện, con dê ưa ăn vị ấy nó vào. Đây
dùng lá dâu, có lẽ vì vận trên phải ép mà để chữ "dâu", chính lá "tre" mới
đúng.
ấp mận ôm đào:cây đào, cây mận thường ở chung một bồn, ý nói vợ
chồng yêu-mến - Gác nguyệt là nơi lầu các đêm trăng.
cười sương cợt tuyết:nghĩa bóng, chơi đùa với nhau khi đêm đông lạnh
lẽo, nơi nệm thúy chăn loan - Phong là một thứ cây giống cây bàng, mùa
thu lá đỏ rất đẹp, thường trồng nơi cung-điện, gọi là "đền phong", "sân
phong", "bệ phong", nghĩa giống nhau.
Đóa lê:là hoa lê, sắc trắng như hoa mai, có vẻ đẹp như người gái thơ: Lê
hoa nhất chi xuân đái vũ :một cành lê đám mưa xuân; tả vẻ đẹp Dương quí-
phi. Thơ Bạch cư Dị ở bài Trường-hận ca.
cửu-trùng:chin tầng, là nơi vua ở. Sở-Từ:" Quân hề cửu trùng": cửa vua ở
chín tầng . Lại có gọi là Tôn động thiên nơi trời tôn kính sự đụng-chạm, là
nơi tầng trời yên-lặng thứ chín, Trời ở.
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu:bởi câu Thơ Trương Hựu vịnh