Chúa xuân: bởi chữ Đông-quân, tên một vị thần mặt trời ra từ phương
Đông, và riêng thống-trị mùa xuân ( Chữ ở bài Cửu-ca).
Đông-quân, đông hoàng, chúa xuân đều một nghĩa.
câu trõ: là câu cá ở nơi có nhiều ngươì câu, mình câu ké.
ái én: tức con chim yến, nghĩa bóng là cung nữ. Ở bài "Tần cung-nữ oán
Bái-công văn" của Đặng trần Thường có câu : "Cái én tam thiên ngơ-ngẩn
đó : ví với ba nghìn cung-nữ ở cung Tần ".
Cù-mộc: là cây cao mà cong, chữ ấy ở thiên Cù-mộc trong Kinh Thi:
"Nam hữu cù-mộc, cát-lũy lụy chi " :
Phương nam có cây cong, dây sắn dây bìm leo đó. Ví các tì-thiếp, hầu mọn
cám đức bà Hậu-phi, vợ vua Văn-vương, không ghen-tuông, bọn ấy được
yên phận, nên ví cây sắn cây bìm nương-tựa cù-mộc. Đây dùng nghĩa bóng,
lối thoát thai, ví vua là cây cù-mộc, cung nữ là cái én.
giâm: là đám mây đen che im bóng mặt trời. Ví nghĩa bóng như cung nữ
được yêu đương một hồi lại thôi. ( hang sâu chút hé mặt trời lại giâm).
cung quế: nơi cung-phi ở
rữa: là rã rời. "chơi hoa cho rữa nhụy hoa " là cho rã rời nhụy.
Phòng tiêu: bởi chữ tiêu-phòng.
Gương loan: có lắm nghĩa:
1- cái gương soi mặt, chạm hình chim loan ở phía sau lưng, hoặc cái gía
gương chạm hình chim loan.
2- Diệm tần Dương nuôi chim loan đã ba năm, nó không kêu. Phu-nhân
(vợ) nghe nói cho nó soi gương nó sẽ kêu. Quả-nhiên loan soi gương thấy
bóng nhớ loài, kêu suốt đêm thì chết.-
Phú ông Vương Bột có câu rằng : "Nguyệt khai loan kinh, hoài tinh giám dĩ
phân hình : gương mở kính loan, soi bónh tinh-tường mà lẻ phân hình-
dạng. Đây dùng gương loan bẻ nửa, là ý lẻ-loi, không có đôi-bạn, chồng,
tức vua, nên tưởng-tượng như mảnh gương loan bẻ một phần nửa.
giải đồng: bởi chữ Đồng tâm đái hoặc Đông-tâm kết là một giải thắt lưng
có hai mối thắt lại giữa rốn, bằng gấm thêu, vật ấy xưa vua Tùy Dương-đế
đã tự niêm phong gởi cho bà phu-nhân được Đế yêu. Đồng-tâm kết, nghĩa
là mối buộc đồng lòng.