đến, sau đó là nỗi tức giận. Ông lấy hết sức lực còn lại, hét lên, ném khẩu
súng về phía lũ chó núi. Đường bay của khẩu súng không dài và chẳng
được tích sự gì: khẩu súng rơi vào một cái hố tuyết nông, xốp, chẳng phát
ra tiếng động nào.
Cuối cùng, người ông kiệt sức bước về phía xác cháu, quỳ thụp xuống,
gục đầu. Ông muốn đọc kinh cầu nguyện, muốn cầu xin Thượng đế và tất
cả các nhà tiên tri giúp đỡ và tha thứ. Nhưng ông không thể làm được gì,
ông chỉ ngồi lặng lẽ, chờ đợi thời khắc đáng buồn của mình sẽ điểm. “Có
lẽ, trong đời, ta đã gây nên nhiều tội lỗi đến mức, vào những phút cuối của
cuộc đời, số phận vẫn còn bắt ta phải trải qua sự thử thách ghê gớm này…
khi mà ta đã mất hết sức mạnh, mất hết nghị lực… Có thể, dạo ở Kolyma ta
đã từng ăn thịt chính những con chó này, hay những con thú khác. Bây giờ
chúng quay lại để ăn thịt ta và cháu ta… Cái lão vật lý cận thị ấy nói đúng:
cả ta và cả ông ấy sẽ không có mồ mả gì sất, sau khi chết những người thân
của ta sẽ không thể chúc phúc cho ta được… Có lẽ trong ký ức của họ, ta
đã sống không xứng đáng…”.
Ông Tsanka cứ ngồi lặng lẽ như thế. Tuyết rơi thành từng nắm nhỏ
trên mái đầu trần, đôi vai gầy và tấm lưng còng của ông. Tuyết tan ra chảy
xuống từ cái đầu hói, chảy vào cổ áo, theo hai hàng xương sườn lép kẹp.
Ông Tsanka không khóc nữa. Tiếng khóc cũng là sự sống, là hành động đấu
tranh cho sự sống, nhưng ông Tsanka không thể khóc được nữa rồi, không
thể làm được gì nữa, và cũng không còn mong muốn gì nữa. Ông chỉ còn
nghe thấy tiếng thở khò khè rất gần, tiếng hít hít và tiếng khịt khịt của
những con chó núi đói. Cái vòng tròn chết người đang thu nhỏ lại. Ngay cả
thính giác rất kém của ông cũng nghe thấy tiếng bước chân rất nhẹ của bầy
thú. Ông có cảm giác những con thú đó to kinh khủng. Ông biết, mình đã
trở nên bất lực và vô vọng. Thật đáng thương. Cuối cùng ông cảm nhận
được mùi bọ rệp và rác rưởi đầm lầy bốc ra từ người chúng.