chuồng nhốt lừa, nhưng chúng ta đã cố gắng dọn dẹp sạch sẽ, chỉ có điều
mẹ không còn sức nữa. Dân ở đây kỳ lạ lắm con ạ. Trời tối, không ai dám
ra đường, mọi thứ trong sân phải mang hết vào nhà. Còn buổi sáng thì đổ
xô đến đồn công an khai báo, mất một con bò thì khai là ba… Người mình,
suốt ngày đêm chạy ngược chạy xuôi như chó sói để không bị chết đói, để
cố mà sống sót, hễ có chuyện gì xảy ra liền bị chính quyền xử lý ngay…
Thằng bé Dakany nhà ta cũng bị bắt chỉ vì một chuyện vặt vãnh… Không
biết bây giờ cháu ở đâu, cháu ơi?!
Tsanka nhìn mẹ mà vẫn không sao bình tâm lại được. Mẹ đã già đến
mức không thể nhận ra. Má hõm sâu, hai gò má và xương hàm nhô ra, cặp
mắt sâu hoắm, bạc phếch, mờ đục, đôi môi xám xịt nứt nẻ, phồng rộp, làn
da nhăn nheo, vàng bệch. Và điều đáng sợ nhất là đôi tay: khô kệch, xương
xẩu và lạnh ngắt với những mạch máu to phồng.
Buổi tối, Tsanka nằm chung với mẹ trên ổ rơm. Tsanka nằm, mắt mở
thao láo, không còn sức lực để suy nghĩ điều gì nữa. Bà Tabark nhóp nhép
cái miệng móm, mút đến viên kẹo thứ ba, món quà của con trai. Hai mẹ con
nói chuyện đến khuya về tất cả mọi việc. Gần sáng, bà Tabark mệt quá,
trước khi thiếp đi còn dặn con:
- Tsanka, mẹ muốn trăng trối với con đôi điều. Thứ nhất: không được
tuyệt vọng mà phải đấu tranh vì cuộc sống. Con là niềm hy vọng cuối cùng
của dòng họ Arachaev, không được để nó bị tuyệt tự. Hãy cố đi tìm Dakany
và Gelany. Mẹ có cảm giác chúng vẫn còn sống… Con còn trẻ, hãy sinh
thêm con nữa, nhất định phải như vậy. Thứ hai: không bao giờ được quên
quê hương, bằng mọi cách hãy cố gắng trở về Duts-Khote, giữ gìn tiếng
nói, tập quán dân tộc và danh dự của dòng họ… Thứ ba, đây là việc riêng:
mẹ cũng sẽ không có mộ. Nếu con quay về nhà, hãy dựng bia cho mẹ và
cho Dikhant, Kutany, Deny ở nghĩa trang Gazavata và một tấm bia nữa cho
cả dân tộc phải chịu nhiều đau khổ của chúng ta… Còn một việc nữa, bác
con, ông Baki-Haji là người trông coi nghĩa trang cổ của làng. Con về nhà,