rất sạch sẽ và ngăn nắp.
Bà chủ tỏ ra tất bật một cách không bình thường, chạy lăng xăng trong
nhà: lôi từ trong gầm phản ra chiếc chậu đồng, chậm rãi rót nước ấm từ
chiếc bình cổ ra cho ông linh mục rửa tay. Rồi bà trải lên phản tấm khăn
trải bàn tự dệt bằng vải gai chỉ để dùng trong những dịp như thế này, đặt lên
đó chiếc khay to, với rất nhiều mẩu bánh mì dẹt đã được cắt theo hình tam
giác vẫn còn bốc hơi nghi ngút, rồi đặt bên cạnh một chiếc bát đựng đầy bơ
đã nấu kĩ.
- Ông ăn đi cho khỏe, - bà Haza vừa nói vừa nhấc ấm nước từ bếp lò
ra, - tôi sẽ pha trà Kalmyk (1)ngay bây giờ.
-----
(1)Một loại trà ngon, có nguồn gốc từ Mông Cổ.
Ông Baki-Haji xắn tay áo lên, ngồi xếp bằng trên phản theo kiểu
người Tatar, và bắt đầu ăn. Ông lấy một mẩu bánh, nhúng vào bát bơ nóng
rồi bỏ vào miệng và chậm rãi nhai một cách thích thú: bà Haza nấu rất
ngon, nhất là để cho ông linh mục.
Họ im lặng khá lâu, ông già không chịu đựng nổi, lấy tay lau đôi môi
dính đầy bơ, hỏi:
- Kesyrt đâu rồi?
- Tôi cũng không biết, ông Baki ạ.
Khi chỉ có hai người với nhau, bà Haza bao giờ cũng gọi ông linh mục
một cách ngắn gọn, thân mật.
- Vậy thì ai biết? - Ông già bực mình.