quân Thập tự chinh khỏi Jerusalem của Saladin vẫn còn niềm kiêu hãnh và
ký ức sống động, trong khi mối thù ấy tạo nên sự e dè của người châu Âu,
những người thường được cho là vừa nghi ngại vừa kính sợ.
Có thể lạc hậu, bị áp bức, sốt rét, Palestine thuộc thế kỷ XIX chắc chắn
không trống rỗng. Sau khi bình định vùng nông thôn trong các thập niên
giữa thế kỷ, các nông dân Ả Rập đã bắt đầu đi xuống từ các làng mạc miền
núi tới đồng bằng duyên hải khá an toàn. Cùng thời gian, Levontin đã định
cư ở Jaffa, dân Palestine đang bành trương nhanh, từ khoảng 350.000 năm
1865 lên đến khoảng 470.000 năm 1882. Cư dân Do Thái có khoảng
24.000.
Hoạt động kinh tế đang phát triển nhanh khi Levant hòa với nền kinh tế
thế giới. Trong một thế kỷ thường được cho là sống dở chết dở, bị tàn phá
và bị nguyền rủa, Palestine đã tìm cách xuất số nông sản dư-lúa mì, lúa
mạch, vừng (mè), dầu ô liu, xà bông, rau trái và, đặc biệt và những thập
niên gần đây của thế kỷ, cam Jaffa. Các thị trường xuất khẩu quan trọng
nhất là Pháp, Anh, Ý, và Ai Cập. Thêm nữa, việc buôn bán cho khách hành
hương đã mang lại lợi tức và thiết lập ngành dịch vụ địa phương.
Ahad Ha'am, chiến sĩ của một dạng phong trào Phục quốc Do Thái, đã
xuất bản một trình thuật sắc bén về tình trạng của các khu kiều dân Do Thái
năm 1891. Trong Sự thật về Đất Israel, ông đã viết:
Chúng tôi ở hải ngoại thường tin rằng Eretz Israel hiện nay hầu như hoang
vắng hoàn toàn, một sa mạc không được gieo trồng, chẳng ai muốn bám vào đất.
Nhưng sự thật không phải thế. Khắp đất nước khó thấy những cánh đồng không
gieo trồng... Nhưng nếu đến lúc cuộc sống của các anh em chúng tôi ở Đất Israel
phát triển tới mức nào đó để phải xâm lấn một mức nào đó đời sống của người Ả
Rập, họ sẽ không nhượng bộ dễ dàng.
Những cải cách của Tanzimat trong các năm 1839-76, tìm đường hiện
đại hóa đế chế Ottoman, cũng dẫn tới những thay đổi về sự chiếm giữ đất