khắp đế chế, nhưng không ở Palestine. Nó cố gắng, chẳng tới đâu, hạn chế
việc vào và cấm việc buôn bán đất của các cư dân Do Thái. Sau khi lâm
chiến bốn lần với Nga chỉ riêng trong thế kỷ XIX, Sublime Porte đương
nhiên cảnh giác dòng di dân lớn của người Nga, Do Thái hay những dân
khác.
Đó là kỷ nguyên của những Thỏa hiệp, khi các cường quốc châu Âu
xâm phạm chủ quyền của Ottoman bằng cách tự cho mình có sứ mạng bảo
vệ những người nước ngoài và những dân thiểu số như những người Công
giáo Roma, những người Do Thái Chính thống và Druze thông qua các lãnh
sự của họ. Palestine đang được vô số ngoại nhân kiến thiết, ổn định, định
giá, và khai quật. Điều cuối cùng mà vua Thổ cần là cấy một thiểu số người
theo chủ nghĩa dân tộc khác trong lòng đế chế sau khi mất các tỉnh châu Âu
trong một loạt cuộc nổi dậy của dân tộc và chiến tranh, cũng như việc người
Anh tiếp quản Ai Cập.
Nhà cầm quyền Ottoman đã được tiếp cận trực tiếp vào những thời
khác nhau trước đây với các mưu đồ định cư người Do Thái trong lãnh địa
của nó, như kế hoạch được nhà văn và là du khách người Anh, Laurence
Oliphant, đưa ra năm 1879, để lập vùng đất Do Thái ở bờ đông của Sông
Jordan. Năm 1882, Oliphant lại cố gắng thuyết phục được nhà cầm quyền ở
Constantinople về kế hoạch của ông, tạo hy vọng trong nhóm những người
yêu Zion. Họ được gọi là Bilu, mà theo tiếng Hebrew, đó là từ cấu tạo bằng
những chữ đầu của lời cổ vũ trong sách Isaiah, "Hỡi nhà Jacob, hãy đến, và
chúng ta hãy bước đi (trong ánh sáng của Chúa)" (Isa. 2: 5). Các thành viên
cúa Bilu lên đường tới Palestine vào mùa hè năm 1882, ngay sau khi
Levontin tới đó.
Nhóm gồm 14 người giong thuyền từ Constantinople tới Jaffa, nhà cầm
quyền Ottoman lệnh cho thủ hiến của nó ở Jerusalem ngăn cấm những
người Do Thái Nga, Romanian và Bulgarian không được cập bến Jaffa hay