Tiếng Hebrew bắt đầu mai một trước cả kỷ nguyên Kito giáo, khi
người Do Thái vùng Cận Đông thừa nhận tiếng Xyri. Tuy nhiên, cả sau khi
người Roma phá đền thờ, tiếng Hebrew vẫn tồn tại trong văn chương tôn
giáo, thi ca, và là ngôn ngữ của những cộng đồng bị phân tán, tương đương
tiếng La tinh trong thế giới trung cổ và Ả Rập cổ điển giữa những phương
ngữ của thế giới Ả Rập.
Đối với những cộng đồng Do Thái truyền thống thuộc đông Âu, tiếng
Hebrew là ngôn ngữ thánh thiêng chứ không phải ngôn ngữ sử dụng hàng
ngày. Ben-Yehuda nghĩ rằng việc chấp nhận tiếng Hebrew là ngôn ngữ nói
chỉ là vấn đề thuộc "ý muốn của cộng đồng".
Herzl nghĩ quốc gia Do Thái nên là đất nước đa ngôn ngữ. Trong Vùng
Đất Cũ mới, các nhà hát trình diễn những tác phẩm bằng tiếng Đức, Anh,
Pháp, Ý, và Tây Ban Nha. Ông hỏi: "Ai trong chúng ta đủ biết tiếng
Hebrew để hỏi mua vé xe lửa bằng ngôn ngữ ấy?"
Cuộc tranh cãi của họ bất phân thắng bại cho tới gần Thế chiến I.
Trong cái được gọi đại khái là "Chiến tranh ngôn ngữ", những người ủng hộ
tiếng Hebrew năm 1914 buộc Tổ chức Cứu tế người Do Thái ở Đức
(Hilfsverein der Deutschen Juden), tổ chức bảo trợ hầu hết thầy giáo ở cộng
đồng Do thái qua hệ thống 50 trường, rút lui khỏi kế hoạch lấy tiếng Đức
làm ngôn ngữ giảng dạy ở Học viện Kỹ thuật Haifa (Technion). Học viện
được cho là kỳ tích của nền văn hóa Đức ở phương Đông, đặc bịêt vì tiếng
Hebrew có quá ít thuật ngữ kỹ thuật.
Ben-Yehuda giận đỏ mặt về kế hoạch ấy, cảnh báo Hilfsverein là "máu
sẽ chảy trên các đường phố". Các thầy giáo ở các trường Hilfsverein đình
công còn các sinh viên biểu tình bên ngoài tòa lãnh sự Đức ở Jerusalem.
Tháng Hai 1914, Technion đã đấu dịu và đồng ý dạy các môn bằng tiếng
Hebrew. Khi Anh chiếm Palestine và hứa thành lập quốc gia của dân Do
Thái, nó công nhận tiếng Hebrew là một trong những ngôn ngữ chính thức,