Al-Sakakini 39 tuổi đã đồng ý che giấu Levin. Nhưng một tuần sau,
ngay khi anh ta bắt đầu cảm thấy an toàn, lại có tiếng gõ cửa trễ lúc đêm
khuya. Cảnh sát đã lần ra dấu của Levin bằng cách bắt và đánh một phụ nữ
Do Thái: Levin đã đề nghị chị ta đưa đồ ăn kiêng cho anh. Al-Sakakini đã
viết: "Này anh, sao anh không ăn đồ ăn của chúng tôi. Chúa tha thứ cho anh
mà? Nếu anh nghĩ đồ ăn của chúng tôi ô uế, hóa ra chúng tôi cũng ô uế vì
ăn những thứ ô uế. Nếu vậy anh làm gì phải tới xin trú ẩn nơi chúng tôi? Ôi,
các tôn giáo! Mà đúng hơn là các đầu óc mông muội! Biết bao nhiêu nạn
nhân mà ngươi đã gây ra".
Levin và Al-Sakakini bị dẫn đi, đoan chắc họ sẽ bị hành quyết. Nhưng
trong thời hỗn loạn của Jerusalem vào những ngày cuối của sự cai trị của
Ottoman, họ bị nhốt trong nhà tù thuộc khu của Nga, và rồi bị dẫn tới
Jericho và Amman cùng với sự rút quân của Thổ Nhĩ Kỳ. Họ được đưa lên
xe lửa tới Damacus, nơi Al-Sakakini bị giam 40 ngày cùng với Levin trước
khi được tha. Trong hồi ký, Al-Sakakini nói rõ là ông rất bực với anh bạn
cùng phòng với ông, nhưng phép lịch sự không cho phép ông tỏ ra sự bất
bình của mình.
Tháng Tám 1918, A-Sakakini trốn khỏi Damacus để gia nhập lực
lượng Khởi nghĩa Ả Rập đang cùng quân Anh tiến lên, nhưng không thể trở
về Jerusalem cho tới năm 1919. Cả Levin cuối cùng cũng trở về. Khi hai
người gặp nhau, Levin cúi đầu tỏ lòng tôn kính tôi vì tôi đã liều mạng mình
để cho anh ta ẩn náu.
Cả Tôi Nữa, Hỡi Thế giới, hồi ký của Al-Sakakini, là một trong vài
trình thuật của thời hình thành sự kháng cự của người Palestine chống lại
phong trào Phục quốc, minh họa sự tan vỡ niềm hy vọng của người theo
chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, sự mài giũa bản sắc của người Palestine, và sự gia
tăng nỗi tuyệt vọng cùng tính chiến đấu của người Palestine khi họ thấy đất
nước của họ đang bị các di dân Do Thái mua sạch và định cư.