người Ba Tư, người Hy Lạp, người Do Thái,người Roma, người Ả Rập,
người Thổ Nhĩ Kỳ, người Pháp, người Anh.
Ở đây, Kinh thánh nói với chúng ta, Vua Solomon đã đưa những cây
tuyết tùng từ Lebanon rồi lại được mang lên tới Jerusalern để xây ngôi đền
cố định cho Thiên Chúa của dân Israel. Theo Tân ước, chính tại Jaffa, Peter
đã khiến Tabitha sống lại. Và cũng chính lại Jaffa những người định cư của
phong trào Phục quốc lần đầu đặt chân đến và bắt đầu xây dựng thủ đô-Tel
Aviv, “thành phố đầu tiên của người Do Thái” thời hiện đại -đã nuốt chửng
cảng nguyên thủy.
Lúc bắt đầu thế kỷ XX, Jaffa là thành phố lớn nhất của Ả Rập ở
Palestine, bến cảng tồi tàn của nó tấp nập đứng hàng thứ ba ở Địa Trung
Hải thuộc phía đông rồi mới tới Alexandria và Beirut. Thập niên 1870, cam
Jaffa được đưa ồ ạt xuống tàu chở tới Anh, át hẳn những mặt hàng xuất
khẩu như lúa mì, dầu ôliu và xà bông. Khoảng đầu thế kỷ XX, chừng 5000
du khách và khoảng 15.000 khách hành hương đi qua Jaffa mỗi năm. Dù
được tiếp đón, nhưng người phương tây này vẫn được gọi là Franj, danh
xưng của Ả Rập cổ để chỉ quân thập tự chinh.
Các du khách đã bỏ lại một thư viện ngày càng phình ra gồm những
chuyện kể của khách lữ hành. Khoảng 2.000 tác phẩm, một số chúng bao
gồm vài tập, được viết vào đúng tám thập niên giữa 1800 và 1878. Ngược
lại, khoảng 1.500 bản thảo còn lại từ toàn bộ tác phẩm của mười lăm thế kỷ
trước. Sự tuôn trào tài liệu này tập trung vào lịch sử kinh thánh nhưng
không đề cập nhiều về Palestine đương thời.
Đất nước ấy được nhìn qua lăng kính nhuốm màu của quá vãng. Hiện
tại, theo định nghĩa, là quốc gia bất hạnh và cùng cực, bằng chứng về sự
nguyền rủa của Chúa.