họ. Họ ngày càng trở thành những người Hồi giáo, những người Palestine
hơn. Phong trào phục quốc đã tạo ra một ý thức giữa những người Ả Rập tự
xưng là người Palestine. Nó là một đứa con sinh ra hợp pháp. Nó xảy ra cho
các gia đình tốt đẹp nhất".
Nếu Giáo sĩ Levinger là cha đẻ của phong trào định cư, thì Haetzni là
cha đỡ đầu của nó. Theo ông, phong trào Phục quốc phải liên tục hoạt động
để tồn tại. Giống như một con quay, nó sẽ đổ nếu nó dừng lại; nguồn năng
lượng là việc định cư.
Haetzni và Levinger lúc đầu giúp phối hợp việc tái định cư ở Khu
Ezion phía nam Jerusalem với những "con cháu" của những người định cư
từng bị đuổi ra khỏi khu vực bởi Sư đoàn Ả Rập năm 1948. Được bảo đảm
với sự phê chuẩn cuối cùng của chính phủ, kế hoạch này là một cơ sở tiến
tới mục tiêu lớn hơn: cuộc trở về "bất hợp pháp" trên đất Hebron.
Một thời gian ngắn sau chiến tranh, đã ra đời "Phong Trào Đất của
Israel" một nhóm người đòi giữ lại toàn bộ đất đã chiếm được. Phong trào
này gồm những người cánh hữu theo kiểu cổ thường kêu ca cả việc mất đất
Transjordan, các thành viên đảng Lao động và một số rất đông những người
dũng cảm như Isser Harel, lãnh tụ huyền thoại đầu tiên của Mossad và
Natan Alterman, nhà thơ nổi tiếng nhất thế hệ của ông. Israel lúc này hưng
phấn vì chiến thắng. Nó thấy mình là vô địch và ngây ngát vì mảnh đất lịch
sử đã rơi vào tay nó. Suy cho cùng, phong trào Phục quốc Do Thái có nghĩa
là trở về Zion. Zion của Kinh thánh không phải là Tel Aviv, Rishon Le-
Zion, hay Degania; nó là những nơi thánh Jerusalem, Bethlelem, Hebron, và
Nablus. Tất cả những nơi này giờ đã nằm trong tay Israel. Vấn đề chính trị
của lúc ấy không phải là có định cư ở các đất này không, mà là phải định cư
bao nhiêu người Do Thái tại đây.
Người Ả Rập phản ứng thất bại của họ bằng sự ương ngạnh. Tinh trạng
các lãnh thổ được để ngỏ. Các bộ trưởng Israel chọn một kế hoạch thỏa