này" một phát ngôn viên Nhà Trắng tuyên bố. Colin Povvell hơi ôn hòa hơn
một chút. Ông nói cả hai bên phải nhớ:"rằng có một ngày mai và một ngày
mốt, và chúng ta phải thử và trở lại một tiến trình dẫn tới một cuộc ngưng
bắn". Thế nhưng đúng lúc Trung Đông có vẻ như sắp sửa có một biến động
nguy hiểm, thì các lời đe dọa của Sharon có cái gì đó rất kỳ lạ.
Để trả đũa lại các nhóm khác nhau thuộc lực lượng an ninh Palestine-là
chính những lực lượng lẽ ra có nhiệm vụ bắt giữ các tay súng khủng bố-các
máy bay Israel bắn loạn xạ và ngoạn mục vào sân bay trực thăng của
Arafat, phá hủy các máy bay trực thăng mà Israel đã không cho cất cánh từ
nhiều tháng trước. Các máy ủi cày nát đường bay ở sân bay Gaza mà Arafat
đã bị cấm không được sử dụng. Các trực thăng nã rốc két vào một khu liên
hợp có các văn phòng của Arafat tại Ramallah, cách xa chỗ ông ở khoảng
50 mét. Mười ngày sau các vụ tấn công vào Tel Aviv và Haifa, 10 người
Israel bị giết trong một cuộc phục kích một chiếc xe buýt ở Bờ Tây. Sharon
phái các xe tăng tới Ramallah. Một chiếc nhắm thẳng vào các văn phòng
của Arafat ở cách đó khoảng 150 mét. Chính quyền Sharon tuyên bố Arafat
"không quan trọng" nhưng vẫn tạo sức ép tối đa về chính trị và ngoại giao
đốì với lãnh tụ Palestine. Arafat trở thành tù nhân ở Ramallah, không thể
bay ra nước ngoài, thậm chí cũng không thể đi dự lễ Giáng sinh ở
Bethlelem. Sharon đang cố tình vô hiệu hóa Arafat. Nhưng vào lúc viết bài
này, tháng Hai 2002, ông vẫn chưa thực sự ra tay.
Đối diện với những đòi hỏi của Mỹ, châu Âu và Liên Hiệp quốc cho
rằng ông phải có hành động, Arafat xuất hiện trên truyền hình Palestine và
đưa ra lời kêu gọi giữ bình tĩnh, với một giọng điệu mạnh mẽ nhất kể từ
cuộc nổi dậy của Intifada. "Tôi một lần nữa kêu gọi ngưng hoàn toàn mọi
hoạt động, đặc biệt các cuộc tấn công tự sát mà chúng ta đã lên án và luôn
luôn lên án". Ít ngày sau, khi các cuộc đọ súng giữa lực lượng Palestine và
các nhóm Hồi giáo làm sáu người chết và hơn 70 người bị thương trong