các cuộc cãi vã với Jordan và Ai Cập, bắt đầu con đường gian nan để đi tới
một thỏa thuận ngoại giao với Israel. Arafat đã bị gạch sổ nhiều lần. Một
phần tư thế kỷ sau khi phát động cái mà hầu hết người Ả Rập cho là một
"cuộc đấu tranh vũ trang" vô vọng chống lại Israel, Arafat đã thành công
kiểm soát được một phần của quê hương Palestine.
Ngoài cái số may phi thường của một người như Arafat, người từng
thoát chết sau nhiều cuộc ám sát và thậm chí thoát chết cả trong một vụ rớt
máy bay, một phần lý do sự sống sót của ông cũng là vì tầm quan trọng của
Palestine trong tinh thần của người Ả Rập và đối với lương tri của phương
Tây. Vào những lúc đại họa, thường xuất hiện một ai đó để giúp cứu vãn cái
gì đó cho chính nghĩa Palestine. Sau 1970, Syria và Lebanon đã giúp PLO
được tái lập ở Beirut. Năm 1982, Hoa Kỳ đứng ra làm trung gian để PLO
triệt thoái khỏi Beirut dưới sự bảo vệ của một lực lượng đa quốc gia gồm
các binh lính Mỹ, Pháp, và Ý. Arafat đặt tổng hành dinh ở Tunis. Năm
1983, chính Saudi Arabia đã can thiệp để chặn đứng các quân nổi loạn do
Syria hỗ trợ nhằm lật đổ Arafat và những người theo ông tại Tripoli. Có thể
thêm, sau thất bại thảm hại của Cuộc chiến Vùng Vịnh 1991, chính đảng
Lao động của Israel đã làm sống lại vận may của Yasser Arafat năm 1993
với các thỏa ước Oslo.
Trong cuộc đối đầu với cựu thù Ariel Sharon, Arafat đã dựa vào thế
giới bên ngoài để kiềm chế các vụ trả đũa của Israel, duy trì "tiến trình hòa
bình", cứu chính quyền Palestine khỏi tiêu diệt.
Đúng lúc mà các nhà báo mô tả kỷ nguyên Arafat sắp kết thúc như thế
nào, thì cố gắng của Sharon nhằm cô lập và làm suy yếu chính quyền
Palestine lại bắt đầu có những kết quả ngược lại với mong muốn của ông.
Hai tháng trước vụ phong toả tổng hành dinh Palestine ở Ramallah, tiếng
tăm của Arafat bỗng dâng cao nơi người Palestine bình thường. Các xe tăng
đe doạ các văn phòng của Arafat bây giờ trở thành đối tượng hầu như hằng