với dân của tôi. Tôi lại đang dự phần vào các lễ hội vui tươi và những ngày
đau buồn, vào các hy vọng và ký ức của dân tộc tôi".
Bất bình về sự bôi nhọ người Do Thái xảy ra ở Damascus năm 1840,
Hess không còn tin là người Do Thái và dân tộc khác có thể hòa hợp thành
một nhân loại duy nhất. Giờ đây ông nghĩ rằng các dân tộc có những nét và
sứ mạng riêng phải hoàn thành. Ông nói, người Do Thái "vẫn sẽ luôn là
những kẻ xa lạ giữa các dân tộc" và ông tin rằng:
Tiếng gọi trọng đại được đặt ra cho người Do Thái: là nguồn sinh động về sự
liên lạc giữa các đại lục. Các người sẽ là người mang nền văn minh cho những dân
tộc nào còn chưa có kinh nghiệm và thiếu người dạy về các khoa học của châu Âu,
các khoa học mà dân tộc của các người đã đóng góp rất nhiều. Các người sẽ là
người hòa giải giữa châu Âu và viễn Á, mở ra những con đường dẫn vào Ấn Độ và
Trung Hoa-những vùng xa lạ cần được mở vào sự văn minh. Các người sẽ tới vùng
đất của cha ông các người đã được gắn triều thiên của đọa đày lâu đời. Và ở đó, rốt
cuộc, các người sẽ được chữa lành hết mọi bất hạnh của các người!
Rome và Jerusalem hình dung trước nhiều học thuyết của chủ nghĩa
Phục quốc Do thái. Alkalai, Kalischer và Hess, theo những cách khác nhau,
đang khóc trong hoang mạc. Họ đã viết vào lúc cực thịnh của chủ nghĩa tự
do, khi quan điểm đối với người Do Thái khắp châu Âu xem chừng sáng
sủa. Các tác giả buổi đầu của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái cố kéo người
Do Thái về vùng đất cổ xưa. Nhưng đối với chủ nghĩa Phục quốc Do Thái
để chiếm được sự mường tượng của dân chúng, người Do Thái phải được
thúc đẩy bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài-Semite.
★
Vào ngày đầu tháng Ba 1881, Nga hoàng Alexander không còn vận
may nữa. Sau vài lần thoát chết khỏi mưu toan sát hại của những người theo
chủ nghĩa vô chính phủ-bao gồm những toan tính bắn ông, làm trật đường
rầy xe lửa của ông và cả tấn công Cung điện Mùa Đông ở St. Petesburg-