dưới các móng tay, sau đó cắt móng tay cất vào trong một phong bì giấy
nhỏ. Tôi đoán thứ đó sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm ADN để so sánh
với bất kỳ kẻ tình nghi nào mà họ nghĩ ra. Ed là nhiều khả năng nhất. Mà
chẳng biết họ có ADN của anh ta để mà so sánh hay không? Tôi lo lắng về
điều đó mất vài phút cho đến khi nhận ra rằng lo lắng về nó thì thật là một
việc làm ngu xuẩn. Cứ kệ cho mấy thám tử nghĩ cách xử lý với tình tiết ấy
đi.
Công việc của tôi là mổ sọ của các xác chết, nhưng lần này bác sĩ
Leblanc hỗ trợ tôi vì Marianne bị bắn vào đầu. Sự tôn trọng và ngưỡng mộ
mà tôi dành cho ông dâng lên cuồn cuộn khi ông thận trọng hướng dẫn tôi
quy trình thực hiện công việc đó theo hướng duy trì được vết thương gây ra
bởi viên đạn trên hộp sọ. Tôi điên cuồng ý thức được sự có mặt của những
giám sát viên, nhưng bằng cách nào đó bác sĩ Leblanc khiến cho mọi
chuyện trông có vẻ như là tôi đang cho ông một đặc ân và tuyệt đối nắm
quyền kiểm soát, thay vì về bản chất là tôi đang được dạy cho cách làm
việc theo từng bước một. Tôi thậm chí còn chẳng thấy phiền phức gì khi cứ
phải dừng lại để Sean có thể chụp ảnh các vết thương.
Tôi nhẹ nhàng nhấc bộ não ra và đặt nó lên đĩa cân, rồi quay trở lại với
cái hộp sọ giờ đã rỗng không.
“Vết thương ở trán chắc chắn là đầu vào”, bác sĩ Leblanc nói bằng giọng
bình thường, ra hiệu cho các giám sát viên đến gần. “Thấy cái kiểu nó lõm
vào trong hộp sọ không?” Ông chỉ vào phần gờ nghiêng, trong khi Sean
chụp ảnh.
“Như khi ta dùng khẩu BB bắn xuyên qua cửa sổ kính”, tôi nói, rồi đỏ
mặt, chắc mẩm mình đã nói một điều ngớ ngẩn.
Nhưng bác sĩ Leblanc lại nhìn tôi cười tán thành. “Chính xác là thế”, ông
nói. “Đừng bao giờ tin khi có người bảo rằng họ có thể nhìn bề ngoài mà
biết chắc đâu là đầu vào và đâu là đầu ra của vết thương. Ta gần như lúc
nào cũng phải kiểm tra bên trong hộp sọ.”