cộng đồng chiến tranh đặc biệt, trái ngược hẳn với những suy nghĩ của các
nhà vạch chính sách ở Washington. Kiến thức vạch kế hoạch và thực hiện
hoạt động tâm lý chiến chống lại địa bàn bị từ chối không thể tìm thấy trong
quân đội Mỹ. Một đại uý trẻ khác cùng đến nhận công tác ở SOG năm 1964
là John Hardaway nhận xét: “với tất cả những gì tôi biết, quân đội không có
kinh nghiệm thực tiễn để rút ra bài học. Tôi đã công tác tâm lý chiến trong
tám năm đầu tiên ở lục quân. Thực ra, khi kết thúc tôi đã là một trong
những cựu chiến binh. Chúng tôi chỉ không có chuyên gia về tâm lý chiến
và chúng tôi không có nhiều kinh nghiệm. Những người giảng dạy chúng
tôi ở Fort Bragg chỉ ở cấp đại uý và họ không phải là những người dày dạn
trong hoạt động tâm lý".(
Những sĩ quan trẻ này còn thiếu cả hiểu biết về miền Bắc. Chiến tranh tâm
lý đòi hỏi sự hiểu biết kỹ lưỡng về mục tiêu trên mọi phương diện chính trị,
xã hội, tổ chức,và lịch sử. Khi được hỏi liệu ông và đồng nghiệp có hiểu
biết về điểm áp lực tâm lý ở miền Bắc hay không, Hardaway trả lời "tôi
không nghĩ vậy”. Những gì mà SOG cần là những cá nhân có thể "nói được
ngôn ngữ, được học về đối tượng tác động, về văn hoá, nhưng trên thực tế,
họ khác hẳn".(
)
Có lẽ điều tồi tệ hơn là những sĩ quan này chỉ đến công tác tại SOG trong
thời gian ngắn và tạm thời vì Russell gặp phải rắc rối trong việc xin phê
duyệt những nhân viên cần thiết, mà thông thường thời hạn công tác là một
năm. Ông đã cãi vã với MACV và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương về 40 biên
chế đã bị cắt bớt trong tổng số 150 nhân viên mà ông yêu cầu. Washington
muốn đẩy mạnh hoạt động bí mật, nhưng Russell lại được yêu cầu cắt giảm
số người mà theo ông rất cần để tiến hành công việc.
Cách khắc phục điểm yếu này là cho mượn nhân viên. Đó là giải pháp tình
thế và các đại uý trẻ chưa hề có kinh nghiệm hoặc được huấn luyện về tâm
lý chiến và không hiểu hoặc hiểu biết rất ít về mục tiêu được cử đến SOG
công tác trong thời gian sáu tháng, khó mà đủ cho việc huấn luyện tại chỗ