chữ: "bị bắt ngay sau khi tiếp đất", "bị bắt làm gián điệp đôi, bị tiêu diệt",
“không có liên lạc, mất liên lạc"(
). Trong thực tế vào năm 1963, chỉ còn
bốn toán và một điệp viên được coi là còn hoạt động ở miền Bắc. Số còn lại
đã chết, đang ở trong nhà tù, hoặc hoạt động dưới sự kiểm soát của đối
phương.
Điều này gợi nhớ lại những hoạt động ở các địa bàn bị từ chối trong quá
khứ, như Colby sau này đau xót nhắc lại "Anh biết đấy, chúng tôi tham gia
hỗ trợ một tổ chức chống đối Ba Lan mà không ngờ tổ chức này hoàn toàn
giả tạo. Người Đông Đức nói rằng rất nhiều trong số điệp viên của Mỹ là do
họ điều khiển. Người Cu Ba gần đây cũng nói như vậy. Vì vậy, Việt Nam
cũng không phải là một câu chuyện hay ho gì”(
).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự bất hạnh của CIA ở Bắc Việt Nam, mà
phần lớn trong số đó là do sự không thích ứng của CIA. Trước hết, CIA
không phải là người tuyển chọn điệp viên cho từng toán. Đối tác Nam Việt
Nam chịu trách nhiệm tuyển chọn trong số dân miền Bắc hiện đang sống ở
miền Nam. Việc kiểm soát chất lượng là vấn đề lớn. Thứ hai, các toán được
xâm nhập rải rác khắp miền Bắc mà không hề tính toán tới khả năng tập
trung họ vào một vùng nhất định sau đó mới mở rộng. Không hề có nhân tố
thân thiện trong các địa bàn mà các toán xâm nhập. Những chuyến xâm
nhập này được "thả tù mù”, vì theo Colby "không có gì để giúp cho việc
xâm nhập. Không có mạng lưới tình báo (tại chỗ ở miền Bắc)". Hơn nữa,
một số toán nhảy dù vào vùng xa và không có tầm quan trọng, những nơi
mà riêng việc tồn tại được đã rất khó khăn. Thứ ba, các toán đều phụ thuộc
vào việc cung cấp qua đường không. Với điều kiện vật chất hạn hẹp của
mình, điều này rất khó đối với CIA. Thứ tư, các toán không được trang bị
tốt về giấy tờ giả để thoát thân trong môi trường an ninh được kiểm soát ở
miền Bắc. Cuối cùng, có những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến yếu tố
an ninh của các chiến dịch. Một số người nghi rằng, các hoạt động này đã bị
tình báo Bắc Việt Nam xâm nhập.