Tuôn ra hết những lời này, mục đích không để các bồi thẩm lắng nghe tiếng
nói của lương tâm mình, Jeffreys ngồi phịch xuống ghế và trấn tĩnh lại.
Màn hài kịch đã kết thúc. Trên bộ mặt xanh lớt của tên chánh án đã không
còn sót lại một dấu vết kích động nào, nó trở nên rầu rĩ âm thầm. Im lặng
một lát, hắn lại cất giọng nhỏ nhẹ, gần như dịu dàng, nhưng từng lời hắn
nói ra đều vang lên một cách rành rọt trong gian phòng lặng ngắt như tờ.
- Tính tôi không thích làm hại ai hay vui mừng trước cái chết của ai. Chỉ vì
cảm thông với anh mà tôi buộc phải nói ra những lời ấy, hy vọng rằng anh
sẽ tự lo liệu cho linh hồn bất tử của mình chứ không phải để cho nó bị
nguyền rủa bởi sự ngoan cố và gian trá. Nhưng tôi thấy rằng mọi cố gắng
của tôi, tất cả lòng trắc ẩn và sự khoan dung của tôi đều vô ích. Tôi không
còn gì để nói với anh nữa - Và quay sang các thành viên hội đồng xử án,
hắn tiếp - Thưa các ngài! Nhân danh là đại diện của pháp luật mà chúng ta,
các quan tòa chứ không phải bị cáo, là người giải thích nó, tôi phải nhắc
nhở các ngài rõ rằng bất kì kẻ nào, dù không tham gia vào cuộc bạo loạn
chống lại Ðức vua nhưng cố tình tiếp nhận, chứa chấp và ủng hộ một tên
phiến loạn thì kẻ đó cũng là một tên phản tặc, giống như kẻ cầm vũ khí
trong tay. Luật pháp là thế đấy! Tuân theo ý thức nghĩa vụ của mình và lời
thề mà các ngài đã tuyên thệ, các ngài phải tuyên án cho thật công minh.
Ðoạn tên chánh án bắt đầu phát biểu, cố chứng minh rằng Baynes lẫn
Blood đều phạm tội phản nghịch, một người vừa chứa chấp tên phản thần,
còn người kia thì chữa chạy thuốc thang cho hắn. Lời phát biểu của quan
chánh án đầy rẫy những lời tâng bốc bợ đỡ đấng minh quân hợp pháp và vị
chúa tể của hắn - Ðức vua được Chúa Trời đặt lên trên tất cả mọi người - và
xỉ vả thậm tệ các tín đồ Tin Lành và Monmouth, người mà, theo lời hắn,
bất kỳ một kẻ nghèo hèn mạt hạng nào, nếu không là con hoang, cũng có
nhiều quyền hy vọng để lên ngai vàng hơn.