nhà giam. Rồi Na-pô-lê-ông bắt đầu những cuộc đàm phán với giáo hoàng
trên cơ sở những điều kiện: Tổng tài thứ nhất sẽ ưng thuận thừa nhận Thiên
chúa giáo là "tôn giáo của đại đa số nhân dân Pháp" và đặt Thiên chúa giáo
dưới sự bảo hộ của chính phủ.
Những cuộc đàm phán trên kết thúc bằng việc ký kết một điều ước hòa
giải nổi tiếng, mệnh danh là "kiệt tác của lý trí nhà nước", ít ra thì những
nhà viết sử tư sản cũng đã khẳng định như vậy.
Thật ra, bản điều ước hòa giải chỉ là sự tuyên bố gạt bỏ phần lớn
những thắng lợi về quyền tự do tư tưởng của cách mạng đã đạt được đối
với nhà thờ. Khi cách mạng cấm không cho bọn thầy tu công khai gây ảnh
hưởng đến nhân dân Pháp, thì Na-pô-lê-ông lại để cho bọn chúng có khả
năng làm việc đó. Vậy những lý do của Na-pô-lê-ông là gì? Câu trả lời đã
rõ và không còn nghi ngờ gì nữa.
Chắc chắn Na-pô-lê-ông không phải là một người vô thần1 vững vàng,
nhưng dù sao người ta cũng có thể nói rằng Na-pô-lê-ông là người theo cái
thuyết "tự nhiên thần luận"2 rất nhạt nhẽo và mơ hồ. Trong đời ông, tổng
cộng lại thì ông đã dành thời gian vô cùng ít ỏi để bàn những vấn đề tôn
giáo. Na-pô-lê-ông không bao giờ nghĩ đến chuyện dựa vào cái nhân vật tối
cao mà các nhà thần học đã đặt ra ấy và cũng không bao giờ tỏ ra có ý theo
học thuyết thần bí3. Vả lại dù thế nào đi nữa, với tên quý tộc người ý này-
bá tước Si-a-ra-mông-ti mà năm 1799 đã trở thành giáo hoàng Pi VII- Na-
pô-lê-ông vẫn không coi là người kế tục của sứ đồ Pi-e, cũng không là
người đại diện của Chúa Trời ở trên trái đất, mà là một lão già người ý xảo
quyết, con người mà chắc chắn là sẽ sẵn sàng âm mưu phục hưng dòng họ
Buốc-bông để thu hồi lại của cải của giáo hội bị niêm phong quản lý trong
thời ký Cách mạng. Nhưng hắn lại sợ Bô-na-pác vì hầu hết nước ý đang bị
người Pháp chiếm đóng, và sau trận Ma-ren-gô, Rôm và giáo hoàngá hoàn
toàn đang ở trong tay vị Tổng tài thứ nhất.