nào nhớ lại được rằng xưa kia những nguyên tắc ấy đã được công bố.
Chẳng hạn, Na-pô-lê-ông đã cấm lưu hành trong nước Pháp và các chư hầu
mấy tờ báo Đức, chỉ vì những tờ báo ấy hướng dẫn một cuộc đấu tranh
quyết liệt chống tư tưởng cách mạng và đã tâng bốc Na-pô-lê-ông, người đã
dập tắt được cách mạng. Na-pô-lê-ông cấm không cho những tờ báo ấy vào
nước Pháp vì: chính bằng cái kiểu ấy mà những tờ báo đó nhắc nhở đến
cách mạng, ông ta không muốn thế. Na-pô-lê-ông cũng đã cấm một cách
rất ngặt nghèo những cuốn sách chỉ nam và những cuốn sách miêu tả địa
hình mà trong có ghi chú những sự kiện cách mạng, và những cuốn sách
xuất bản trước thời ông ta đã bị lôi ra khỏi các nhà in do những cuộc khám
xét liên tiếp. Trong các sách giáo khoa không được nhắc lại rằng "xưa kia"
nền Cộng hoà đã có ở Hà Lan và ở Thụy Sĩ, mặc dù đến năm 1806, Na-pô-
lê-ông mới thủ tiêu nền Cộng hoà ở Hà Lan.
Năm 1810, một gã Ba-ruy-en Bô ve nào đó có ý định viết một quyển sách
nhan đề là "Những hành động của những nhà triết học và của những người
cộng hoà". Sau khi phun ra những lời hằn học bỉ ổi chống những người
cách mạng và trong khi xu phụ Na-pô-lê-ông một cách trơ tráo nhất, Bô-ve
đã tự hào là việc xuất bản quyển sách của y sẽ không gặp khó khăn gì.
Nhưng chính vì vậy mà y lầm: sách bị cấm và bị tịch thu... vì trong cuốn tài
liệu công khai đó, Bô-ve đã khuấy động những kỷ niệm đau thương.
"Chủ nghĩa Gia-cô-banh bí mật" là cái tội mà chính phủ Na-pô-lê-ông
không bao giờ tha thứ cho những người cầm bút. Và thứ "chủ nghĩa Gia-
cô-banh bí mật" ấy đã được biểu hiện bằng những hình tích tinh tế rất bất
ngờ, thí dụ: tác giả tán dương đạo đức trong sạch của A-rít-tít hoặc đức
liêm khiết của Ca-tông, lập tức anh ta bị tình nghi ngay: có phải tác giả
muốn tán tụng những chính phủ cộng hoà không? Vì A-ten và Rôm đều là
những nước cộng hoà.
Na-pô-lê-ông khống chế việc xuất bản báo chí, sách vở của các dân
tộc bị khuất phục cũng bằng một cái ách nghẹt thở như vậy. Chỉ hơi đả
động bóng gió đến sự nô dịch của tổ quốc là không những toà báo bị đe doạ