lực của ai cả, vì nước Phổ, vào cuối năm 1806, hầu như không còn là một
cường quốc nữa.
ở Pê-téc-bua, người ta quyết định đưa ra tiền tuyến một đạo quân
100.000 người cùng với tổng đội dự bị pháo binh và vài trung đoàn Cô-dắc
để chống Na-pô-lê-ông. Đội cận vệ thì mấy ngày sau mới rời Pê-téc-bua.
Na-pô-lê-ông quyết định tiến quân trước quân Nga. Tháng 11, quân
Pháp đã vào Ba Lan. Giai cấp quý tộc Ba Lan và giai cấp tư sản chẳng
đông đảo gì, phần lớn bao gồm các thương nhân và các nhà tiểu công nghệ,
hoan hỉ đón tiếp quân Pháp, chào mừng Na-pô-lê-ông, người phục hưng
nền độc lập của Ba Lan đã bị mất đi từ cuối thế kỷ thứ XVIII sau ba lần đất
nước bị phân chia. Nhưng Na-pô-lê-ông có để ý gì đến nền độc lập của Ba
Lan. Trong cuộc đấu trọng đại ấy của ông, ông chỉ cần dùng Ba Lan để làm
tiền đồn hoặc làm bia đỡ đạn khi xảy ra chiến tranh với Nga và áo ở miền
đông châu Âu (với Na-pô-lê-ông, nước Phổ không cần đếm xỉa tới nữa).
Nhưng muốn vậy thì trong chính sách đối ngoại, Na-pô-lê-ông phải hành
động đúng như là người kế tục truyền thống cách mạng của nước Pháp tư
sản. Song Na-pô-lê-ông chẳng bao giờ tự lĩnh lấy nhiệm vụ đó, và lúc đó
Na-pô-lê-ông cũng chẳng nghĩ tới việc tiêu diệt đế quốc của bọn Sa hoàng.
Đến một lúc nào đó, nước Ba Lan sẽ là nguồn nhân lực và vật lực để bổ
sung, tiếp tế cho quân đội của Na-pô-lê-ông. Na-pô-lê-ông đã đạt được mục
đích đầu tiên bằng cách tranh thủ được cảm tình rộng rãi của giới tiểu quý
tộc và tư sản ở các thành phố đối với nước Pháp, với tư cách là người bênh
vực tự do của các dân tộc. Bằng một loạt những biện pháp trưng thu
nghiêm ngặt, Na-pô-lê-ông đã bòn rút được những nguồn lợi khá lớn ở Ba
Lan.
Sau hòa ước Tin-dít, Na-pô-lê-ông phải giải quết "vấn đề Ba Lan"
bằng cách đem phân chia lại nước Ba Lan, và giao cho đồng minh mới của
mình là vua xứ Xắc-xơ phần đất đai lớn nhất của Ba Lan thuộc Phổ, tên là
đại công quốc Vác-sa-va. Công quốc này gồm nửa phần bắc nước Ba Lan
vùng thiểu số, trừ vùng Bi-ê-lốt-xtốc đã giao cho A-lếch-xan. Nhưng trước
khi ký hòa ước Tin-dít, tình hình thắng bại vẫn chưa rõ rệt, trong lúc chờ
đợi, Na-pô-lê-ông đã thành lập được một phái thân Pháp trong số đại thần