lắng đến nhà cửa của chúng, con cái của chúng. Giữa bà với chúng nào có
khác gì như cho đến nay bà vẫn tưởng.
Và, bà nghĩ đến việc đã quyết định, có thể nói là tước của hàng nghìn
thiên nga, vịt trời, chim cốc những chiếc tổ ấm cạnh hồ Tâkern. Thế là
chúng phải biết bao lo lắng! Sau cái việc ấy thì làm sao mà chúng có thể
nuôi nấng và dạy dỗ con cái chúng được? Bà đứng im lặng, miên man suy
nghĩ. Thoạt mới nhìn thì hình như biến một cái hồ thành đất trồng trọt và
đồng cỏ là một công việc hữu ích và tốt lành, nhưng mà cũng phải có một
cái hồ nào khác hồ Tâkern, một cái hồ mà không có một số chim đông đến
như thế này cư trú chứ.
Bà nhớ ra rằng ngay ngày mai đây thôi, người ta sẽ quyết định tát cạn hồ
Tâkern, và bà tưởng là đã thấy trong việc này một lý do của việc con bà mất
tích. Bà vội vàng chạy về trại, và nói ngay cho chồng nghe cái điều mà
bỗng nhiên bà nghĩ ra. Bà nói với chồng về cái hồ và về các loài chim, và
bà nói với chồng rằng cái chết của Per Ola phải là một sự trừng phạt của
Chúa cho cả hai vợ chồng họ. Và, tức thì bà thấy chồng cũng cùng ý nghĩ
như bà. Họ đã có một dinh cơ lớn, nhưng nếu việc tát cạn hồ mà hoàn thành
thì phần lớn đất đai thu được ở đấy sẽ thuộc về họ và sản nghiệp của họ sẽ
tăng lên gần gấp đôi. Bởi thế mà họ đã thúc giục việc thực hiện dự định này
hăng hái hơn bất kỳ một người nào trong số các cư dân ven hồ.
Thế là người chồng đứng lặng, tự hỏi có nên xem là một ý Chúa, cái việc
hồ Tâkern đã bắt mất con trai họ ngay hôm trước cái ngày mà họ định kí
hợp đồng về việc tát cạn hồ không. Vợ ông ta chẳng cần phải nói gì nhiều,
thì ông ta đã trả lời:
- Có thể là Chúa không muốn chúng ta xen vào cái mà chính Chúa đã an
bài. Mai, tôi sẽ nói với những người kia, và tôi tin rằng chúng ta sẽ quyết
định là hiện nay không nên thay đổi chút gì cả.