trùng xuống như thể ông ta sắp khóc. Ông ta lấy chút thời gian để giữ bình
tĩnh. “Ta chưa bao giờ quên ánh mắt đó - một lời buộc tội trong mắt bà ấy.
Đó là những gì ta nhớ nhất khi nghĩ về cái ngày họ chôn cất Crystal.” “Thế
ra mọi người đã nghĩ ông là kẻ sát hại Crystal,” tôi nói.
“Mọi người thật ngu ngốc,” ông ta nói. “Bên cạnh đó, nếu ta giết bất cứ
ai, thì ta cũng không cần gã luật sư biện hộ chết tiệt đó.”
“Luật sư biện hộ ư?”
“Ông ta là người đã tung ra các tin đồn rằng ta giết cô ấy. Ông ta nói với
bồi thẩm đoàn rằng ta đã làm điều đó. Thật là một đồ chó cái. Nó được ghi
rành rành trong giấy tờ. Ta hồi đó mới chỉ có mười sáu tuổi, vì Chúa.”
“Ông là người cuối cùng nhìn thấy cô ấy còn sống,” tôi nói. Andrew
nheo mắt nhìn tôi và trong một giây suy nghĩ, tôi đã làm tới. “Chúng cháu
đã đọc lời khai trong buổi thẩm vấn,” tôi thêm vào.
“Và vì thế, cậu biết rằng ta đã thả cô ấy ở trước cửa nhà và lái xe đi,”
ông ta nói. “Cô ấy vẫn còn sống khi ta rời khỏi đó.”
“Đúng vậy,” Lila nói. “Ông đã thả cô ấy xuống, và nếu cháu nhớ không
lầm thì, ông đã nói cô ấy ở nhà một mình.”
“Ta chưa bao giờ nói rằng cô ấy ở một mình; ta nói ta không nghĩ rằng
có ai đó khác ở nhà. Nó rất khác nhau mà. Nơi đó trông có vẻ vắng vẻ đối
với ta, vậy thôi.”
“Ông có biết cha dượng của cô ấy đang ở đâu không?” Lila hỏi. “Hoặc là
anh trai kế?”
“Bây giờ thì làm sao mà ta biết được?” Ông ta nói. Lila nhìn vào tờ giấy
ghi chép của mình, giả vờ như đang cố nhớ lại điều gì. “Ồ, theo như lời