Trước chiến tranh, dân chúng Do thái tại các xứ đã bị quân đội Đức
chiếm đóng là 9.800.000 người. Sau khi chiến tranh kết liễu, số dân ấy sụt
còn 4.250 000. Vậy số người biến mất là 5.550.000 người. Tuy nhiên, giáo
sư Baron tuyên bố là các công cuộc sưu tầm của ông đã đưa đến con số 6
hoặc có thể là 7 triệu người chết. Ông cho vài thí dụ chấn động. Tại Ba lan,
trước chiến tranh, dân chúng Do thái là 3.300.000 người. Trong cùng xứ Ba
lan ấy sau chiến tranh, chỉ còn có 73.955 người Do thái. Trong khoảng
500.000 người Do thái Đức, chỉ còn có từ 15 đến 20.000 sống sót. Tại Tiệp
khắc, 14.000 sống sót trên tổng số 356.000 người. Nhân chứng đã về quê
ông tại vùng Galisie và chỉ thấy lại được chừng 20 người sống sót trong
một cộng đồng phồn thịnh gồm 20.000 người Do thái.
Việc diệt chủng mà bị cáo là đồng lõa và là người tổ chức được định
danh bằng từ ngữ Endlosung — giải pháp cuối cùng – do Himmler và
Heydrich đặt ra.
Ngày được quyết định áp dụng “giải pháp cuối cùng” nầy — có nghĩa là
cho mở màn việc tận diệt dân tộc Do thái tại Âu châu — chính Eichmann
chuyên viên về vấn đề di dân, chuyên môn về chuyển vận, thư lại nhiệt
thành, công chức tinh tế, đã được Himmler chọn làm kẻ thi hành công tác.
Tại Tòa án, người ta nhắc đến mọi sự tình của buổi hội hắc ám gọi là
“Hội nghị Wannsee”. Chẳng những Eichmann được thượng cấp của hắn ta
tại cơ quan Gestapo là Mueller triệu đến, mà chính hắn ta đã cung cấp cho
Heydrich các yếu tố của bài diễn văn mà Heydrich, trong tư cách là chỉ huy
trưởng các Cơ quan An ninh Quốc gia, Reichssicher heitdiensthauptamt,
phải đọc lúc khai mạc buổi họp. Khi buổi họp bế mạc, sau khi các nhân vật
không thuộc cơ quan Gestapo ra về, Eichmann, tràn đầy tham vọng, cảm
thấy thích thú khi được ở lại uống rượu với Heydrich và Mueller bên lò
sưởi.
Nhờ các nhân chứng, bên cáo tố có thể chứng minh rằng kế hoạch tiêu
diệt gọi là “giải pháp cuối cùng” đã được Ban IV B4 thi hành. Các tài liệu