hơi cứng, đã được mẹ trân trọng là tối hôm trước, mẹ sung sướng nghĩ đến
ngày mai mẹ sẽ đi cùng con trai ra bờ biển trong khi mẹ vừa là vừa nhẩm
hát một điệu của Lucie de Lammermoor. Giờ đây mẹ đã chết rồi.
Và chúng tôi bắt đầu ăn một cách từ tốn, lơ đãng nhìn biển, người nọ phụ
thuộc người kia đến thế. Đây là lúc đẹp nhất trong tuần, là ảo tưởng của
mẹ, nỗi đam mê của mẹ: ăn cơm trưa với con trai bên bờ biển. Với một mặc
cảm tự ti, mẹ nói nhỏ bảo tôi hãy hít thở không khí của biển cho nhiều, hãy
dự trữ không khí trong lành cho cả tuần. Tôi tuân theo, cũng ngốc nghếch
như mẹ. Các khách hàng nhìn chú bé ngu đần há hốc miệng một cách có ý
thức để nuốt cho nhiều không khí của Địa trung hải. Ngốc nghếch, phải,
nhưng chúng tôi yêu quý nhau. Rồi chúng tôi nói, chúng tôi bình luận về
các khách hàng khác, chúng tôi nói nhỏ, rất hiền và có giáo dục, chúng tôi
nói, sung sướng, mặc dù không bằng khi chuẩn bị ở nhà, sung sướng nhưng
với một nỗi buồn kín đáo nó phát sinh từ cảm giác mơ hồ rằng người này là
xã hội duy nhất của người kia. Tại sao lại cô đơn như vậy? Bởi vì chúng tôi
nghèo, tự hào và xa lạ và nhất là vì chúng tôi là những kẻ khờ không hiểu
biết gì những mánh khóe của con người xã hội, và không có cái mưu mẹo
tối thiểu cần thiết để gây những mối quan hệ. Tôi còn nghĩ rằng sự trìu mến
vụng về của chúng tôi trao tặng quá nhanh, sự yếu kém quá rõ và sự nhút
nhát của chúng tôi đã đẩy xa nhiều tình bạn có thể đã đến với chúng tôi.
Ngồi tại chiếc bàn xanh này, chúng tôi quan sát các khách hàng khác,
chúng tôi cố nghe họ nói chuyện, không phải vì tò mò thông thường mà do
khao khát tình người, để được là bạn của họ từ xa. Chúng tôi đã mong
muốn điều đó biết bao. Bằng cách nghe như vậy chúng tôi đã cố tháo gỡ
cho mình. Thế là xấu chăng? Tôi không thấy thế. Cái xấu là trên trái đất
này, dịu dàng và ngây thơ không đủ để được đón nhận nồng nhiệt.
Ngồi tại chiếc bàn xanh này, chúng tôi đã nói nhiều để cho khuây khỏa.
Đề tài muôn thuở câu chuyện của chúng tôi là hai chúng tôi và cha tôi, và