không cất cánh, bạn sẽ không có phương tiện để đưa những hành khách
bụng đầy bia từ Munich trở về – và chắc chắn bạn sẽ bỏ lỡ nhiều chuyến bay
khứ hồi. Đổi tuyến bay cho hành khách là một việc làm tốn kém và không
bảo đảm.
Bạn thực hiện vài cuộc điện thoại và thấy rằng việc tìm một nhà kinh tế học
hàn lâm có đầu óc thông thường hóa ra lại còn dễ hơn so với việc tìm một
phi công khác – có nghĩa đây là một sự kiện có xác suất xảy ra bằng 0. Toàn
bộ số cổ phần của bạn trong hãng hàng không lúc này đang đứng trước mối
đe dọa lớn. Bạn cầm chắc sự phá sản trong tay.
Bạn bắt đầu nghĩ: à, ừ thì, nếu Bob là nô lệ, là người thuộc quyền sở hữu của
bạn, thì hẳn những chuyện như thế này sẽ không có cơ may xảy ra. Nô lệ ư?
Nhưng đợi đã… việc làm vừa rồi của Bob là điều mà các nhân viên, ở vị thế
những người đi làm thuê, sẽ không làm! Những người làm thuê kiếm sống
không hành động một cách cơ hội như vậy. Người làm theo hợp đồng thời
vụ được tự do thái quá; vốn là người chấp nhận rủi ro, hầu như họ chỉ sợ luật
pháp. Nhưng nhân viên còn phải bảo vệ danh tiếng của mình. Và họ còn có
thể bị sa thải nữa.
Những người làm công ăn lương thích sự đều đặn của bảng lương, với một
phong bì đặc biệt đặt trên bàn họ vào ngày cuối cùng trong tháng, và nếu
thiếu nó, họ sẽ phản ứng như một đứa trẻ thiếu sữa mẹ vậy. Bạn nhận ra rằng
nếu Bob là nhân viên chính thức chứ không phải là thứ gì đó ít tốn kém hơn
– tức thứ lao động hợp đồng thời vụ ấy – thì có đời nào bạn phải chịu nhiều
rắc rối đến thế.
Nhưng nuôi nhân viên lại tốn kém. Bạn phải trả lương cho họ ngay cả khi
không có việc gì cho họ làm. Bạn mất đi sự linh động. Bạn còn phải có tài
nhận ra nhân tài, mà họ thì còn tốn kém hơn nữa. Những người yêu bảng
lương vốn lười biếng… nhưng họ sẽ không để bạn phải thất vọng trong
những thời điểm như thế này.