Con người của công ty là người cảm thấy anh ta sẽ chịu sự mất mát lớn khi
không hành xử như một con người của công ty – tức là, anh ta có da thịt
trong cuộc chơi.
Đổi lại, công ty chịu sự ràng buộc trong một thỏa ước rằng họ sẽ phải để tên
những con người của công ty này trong các sổ sách tài chính càng lâu càng
tốt, cho đến ngày họ phải về hưu theo quy định, và sau đó, họ sẽ ung dung
với một khoản lương hưu thoải mái, nhàn tản chơi golf với các đồng nghiệp
cũ. Hệ thống này hiệu quả khi những tập đoàn lớn tồn tại trong một thời gian
dài và được coi là sẽ trường tồn hơn cả các nhà nước-quốc gia.
Tuy nhiên, sang những năm 1990, người ta bắt đầu nhận ra rằng làm con
người của công ty là an toàn… với điều kiện công ty đó vẫn còn tồn tại.
Nhưng cuộc cách mạng công nghệ ở Thung lũng Silicon đã đặt các công ty
truyền thống trước những mối đe dọa về tài chính. Ví dụ, với sự phát triển
của Microsoft và máy tính cá nhân, IBM, vốn là chốn mưu sinh chính của
những con người của công ty, đã phải cắt giảm một phần nhân công “gắn bó
cả đời” với họ, và đến khi đó, những người này mới nhận ra rằng vị trí ít rủi
ro của họ thực ra lại không hề ít rủi ro chút nào. Họ không thể tìm việc ở nơi
khác; họ không có ích gì đối với bất cứ ai bên ngoài IBM. Ngay cả khiếu hài
hước của họ cũng trở nên thảm hại khi ở ngoài phạm vi nền văn hóa của
IBM.
Nếu như con người của công ty đã biến mất, thì thế vào chỗ của anh ta là
con người đa công ty. Bởi lẽ, người ta không còn nằm dưới sự sở hữu của
một công ty nữa, mà bị cầm tù bởi một thứ khác đáng sợ hơn: cái tư tưởng
cho rằng họ cần phải được việc. Người được việc gắn chặt vào một lĩnh vực,
trong lòng luôn canh cánh nỗi sợ làm phật lòng không chỉ nhà tuyển dụng
hiện tại, mà cả những nhà tuyển dụng tiềm năng khác
.
LÝ THUYẾT CỦA COASE VỀ CÔNG TY