mái, bàn làm việc - để ông viết những bài thơ xuất sắc của mình, bàn ăn -
để ông ăn uống ngon lành.
Chúng tôi tưởng rằng, sau khi nhận được đồ gỗ của chúng tôi và bày biện
ra, Abutalíp sẽ chạy đến cảm ơn tới tấp. Nhưng chúng tôi không hề nghe
thấy một lời cảm ơn dù là qua loa của ông hay ít ra là lời xác nhận rằng đồ
gỗ đã được chuyến tới nơi. Lúc đó, chúng tôi bèn quyết định đến thăm
Abutalíp và thứ xem ông đã bày biện những thứ chúng tôi mua thế nào.
Chúng tôi khỏi phải gõ cửa vì cánh cửa căn phòng mở toang. Chúng tôi
bước vào nhà. Bên cạnh bàn ăn cơm, ngay dưới sàn, trên tấm thảm, là
Abutalíp cùng với gia đình ông. Tất cả ngồi quỳ chân quanh “mâm” cơm
đặt trên một tờ báo. Abutalíp đang xúc sữa chua đựng trong đĩa mà ăn,
Abutalíp nhìn lên chiếc bàn ăn đánh vécni bóng lộn như nhìn một cô gái
đang chờ được ôm ấp, nhưng ông lại không hề muốn ôm cô ta.
Ở một căn buồng khác, chúng tôi thấy một cái bàn viết tuyệt đẹp. Trên
bàn đặt giấy, bút, mực chưa ai mó tay vào. Những đồ vật đó, và cả cái bàn
nữa, trông giống hiện vật bảo tàng hơn là những thứ để dùng hàng ngày.
Đối diện với chiếc bàn, ở dưới sàn, có mấy tờ giấy viết chi chít những hàng
chữ theo mẫu tự Ả Rập.
- Bác Abutalíp, chằng lẽ bác không biết sử dụng mẫu tự hiện đại sao?
- Biết chứ, nhưng tôi quen viết theo lối cũ. Mới đầu viết bằng mẫu tự Ả
Rập, sau đó chuyển sang lối viết mới để đưa cho các nhà biên tập, đại khái
như là tôi tự dịch cho mình ấy mà.
- Ông ấy chưa ngủ một lần nào trên chiếc giường đó cả, - bà vợ ông cho
biết, - Các anh mua các thứ đồ đắt tiền này phí quá.
- Giường để làm gì kia chứ? Dạo đầu năm tôi mới về ở thành phố, tôi
dùng một hòn đá mang từ núi xuống để thay gối thế rồi tôi đã ngủ say hơn
cả lúc kê đầu lên gối. Tôi đã quen gối đầu lên đá để ngủ như vậy từ hồi đi
chăn bò.