- Sao anh lại nộp đơn ly dị? - Chúng tôi hỏi anh. - Anh mới lấy vợ thôi,
mà hình như anh yêu cô ta rồi lấy đấy chứ, sao lại có chuyện như vậy?
- Hóa ra là chúng tôi không tìm được tiếng nói chung. Cô ta không biết
một tiếng Avar nào, không biết phong tục, tập quán Avar, không hiểu tính
tình người miền núi, đồng bào tôi, không muốn họ làm khách ở nhà mình.
Cô ta không biết một câu tục ngữ Avar nào, không biết một câu đố, một bài
hát nào.
- Thế rồi anh sẽ phải làm thế nào?
- Chắc là phải lấy vợ lần thứ ba.
Tôi có cảm tưởng rằng, trước khi tìm cho mình người vợ thứ ba, nhà thơ
trẻ kia phải tìm được con người mình cái đã.
Tôi muốn cuốn sách của tôi gần gũi với núi rừng Avaria và gần gũi với cả
các bài xonnê của Sếchxpia. Tôi muốn cuốn sách của tôi chính là người vợ
thứ ba mà cho đến nay nhà thơ trẻ Đaghextan kia vẫn đang tìm kiếm.
Rút trong sổ tay, ở Makhátkala người ta đã xây xong ngôi nhà của Hội
nhà văn gồm 40 căn. Bắt đầu tiến hành phân chia. Một số thì yêu cầu phải
phân phối nhà tương xứng với tài năng, một số khác thì yêu cầu phải tính
đến số con cái.
Cần phải nói rằng phân phối nhà giữa các nhà văn là một việc đầy khó
khăn. Nhưng rồi đâu cũng vào đầy. Bốn mươi gia đình nhà văn đã dọn đến,
ăn mừng nhà mới, và ngày hôm sau thì hai mươi bà vợ nhà văn cũng lên
đường đi Matxcơva. Vài ngày sau họ trở về trông gầy gò, mệt mỏi như vừa
qua một cuộc chiến tranh. Ít lâu sau, đồ gỗ Matxcơva gửi theo tàu hỏa cũng
về đến nơi.
Mới đầu họ tìm kiếm, chọn lựa rất lâu. Nhưng sau, có một bà đánh bạo
mua trước. Những bà kia không muốn đồ gỗ của mình lại xấu hơn. Thật
không may là bà mua đầu tiên lại mua thứ đồ gỗ đắt tiền nhất, và cũng khó
mà có thể vượt được bà ta. Kết quả là cả hai mươi căn buồng đều giống