cho thành phố vĩ đại kia. Ông yêu làng Xađa của mình và không bao giờ đổi
nó để lấy bất cứ một thủ đô nào trên trái đất này.
Làng Xađa thân yêu của tôi! Đây, tôi đã trở về đây từ thế giới rộng lớn
mà ở đó bố tôi đã nhận thấy bao nhiêu là “nhược điểm”. Tôi đã đi khắp thế
giới ấy, và đã nhìn thấy bao nhiêu kỳ thú. Đôi mắt tôi hoa lên trước bao
nhiêu cảnh đẹp phong phú, không biết dừng lại ngắm cảnh nào. Vừa nhìn
một ngôi đền đẹp đẽ, đôi mắt tôi đã vội lướt sang một ngôi đền khác cũng
đẹp như vậy; vừa thấy một gương mặt đẹp thì trước mắt đã hiện ra một
gương mặt khác đẹp hơn; tôi biết rằng dù hôm nay tôi nhìn thấy những cái
đẹp đến đâu, ngày mai tôi vẫn sẽ nhìn thấy những cái đẹp hơn... Như ta thấy
đây, thế giới này không bao giờ có tận cùng.
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những ngôi chùa Ấn Độ, những kim tự tháp Ai
Cập, những ngôi đền cổ Italia; hãy tha lỗi cho tôi những xa lộ nước Mỹ,
những đại lộ Pari, những công viên nước Anh, những ngọn núi Thụy Sỹ.
Hãy tha lỗi cho tôi, những người phụ nữ Ba Lan, Nhật Bản, Rôm - tôi ngắm
nhìn các bạn, nhưng trái tim tôi bình thản đập, và nếu nhịp đập của nó có
nhanh hơn một chút, cũng không đến nỗi làm miệng tôi khô đắng và đầu óc
quay cuồng.
Vì đâu mà bây giờ, khi tôi lại nhìn thấy bảy mươi nếp nhà nép mình bên
vách đá này, trái tim tôi bỗng đập liên hồi, làm tôi đau đau nơi lồng ngực,
mắt tôi nhòa đi và đầu óc quay cuồng như tôi đang bị ốm hay say rượu?
Chẳng lẽ cái làng Đaghextan nhỏ bé lại đẹp hơn Vơnizơ, Cairô hay
Canquytta?
Chẳng lẽ người phụ nữ Avar chậm chạp bước đi trên con đường mòn nhỏ
với bó củi trên vai đẹp hơn người đàn bà xứ Xcanđinavơ cao lớn, tóc màu
hạt dẻ?
Ôi, Xađa! Ta bước đi trên những cánh đồng của ngươi, và sương lạnh ban
mai đã làm đôi chân ta hết mỏi. Tôi không lấy nước dưới lòng suối trong
khe núi, chỉ lấy nước tận đầu nguồn rửa mặt. Người ta nói rằng nếu muốn
uống, hãy uống nước nguồn. Người ta cũng nói rằng, - điều này tôi nghe bố