tiếc hơn cả là không có mặt Abutalíp ở đây, nếu có ông thì chắc ông đã tìm
cách cho chị ta một chữ chính xác.
Người ta nói rằng không có gì ranh ma hơn cáo và cái đuôi của nó. Thế
mà nó lại phạm sai lầm ghê gớm là đặt cái đuôi mầu đồng hun của mình lên
cổ áo của chị ta. Người đàn bà bước lại quầy báo chí, tôi và Akhơmét đứng
nói chuyện một lúc với nhau.
- Anh sống thế nào, có thoải mái không, anh bạn Akhơmét?
- Ồ, tôi cảm thấy mình như con bò thiến mà người ta đã đeo ách vào để
kéo cối xay đậu. Vợ tôi chỉ huy tôi trong mọi việc. Chà, nếu anh biết cô ta
là người có học thức thế nào! Thật là thông minh. Quen biết riêng Blốc và
Maiakốpxki này. Từng làm bạn với Xécgây Êxênhin này. Đã ở Pari. Nói
tiếng Anh rất tuyệt. Chúng tôi có căn nhà bốn buồng, mà chỉ có hai chúng
tôi thôi. Không có con. Chỉ có con chó Tôsích thôi. Thứ chó Nhật Bản, bé
hơn cả mèo,
- Phải rồi, anh gặp may đấy, Bây giờ anh đi đâu vậy?
- Tôi đem thơ đến tòa soạn “Murzinka”. Người ta nói là đối với trẻ em thì
hơi sâu sắc quá. Tôi mang tới tạp chí dành cho các nông trang viên nhỏ tuổi.
Các anh ở đấy khen bài thơ lắm, nhưng nói là cần phải viết thêm đôi ba câu
cho có chữ “nông trang” trong bài. Tối nay tôi viết nốt và sáng mai lại
mang đến... Anh Raxun ạ, hóa ra là cần phải kiếm sống và làm việc như
vậy! Vợ tôi nói với tôi: đứa bé trước khi biết đi cũng phải bò. Sau này thế
nào tôi cũng sẽ viết được những tác phẩm ra trò.
- Anh Aliôsa, - chị vợ bước lại gần và gọi chồng vừa âu yếm vừa như ra
yêu sách. - Chúng ta ghé qua nhà cho con Tôsích ăn một chút gì đã, rồi đến
tòa soạn “Cá sấu” và “Nữ công nhân”.
Sau lần đó, rất lâu tôi không gặp lại Akhơmét. Có lần tôi nhận được thư
anh. Anh yêu cầu tôi đặt mua cho anh một chiếc bình của vùng Bankhar với
dòng chữ khắc: “Tặng vợ thân yêu của tôi”. Tôi đặt làm chiếc bình và nghĩ
rằng: “Chắc là quả tình chị ta cũng làm được cho anh ấy nhiều việc”. Thơ
anh do vợ dịch đã thỉnh thoáng được đăng khi thì ở báo “Murzinka”, khi thì