nhưng thực ra ai nấy đều sốt ruột. Họ đứng xúm quanh thùng rượu như cừu
đứng quanh chỗ những người chăn cừu rắc muối.
Rượu được đóng vào các bình, mọi người bắt đầu nếm, và tất cả đều thất
vọng. Nghe thấy tiếng kêu:
- Đây mà lại là rượu à! Nước lã chính cống!
- Hoàn toàn là nước sông múc lên!
- Các ông các bà bán hàng thử nếm coi.
- Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này cả, - người bán hàng thanh minh.
- Chính các anh cũng trông thấy người ta chở thùng rượu đến bằng ô tô.
Người ta dỡ xuống trước mặt các anh. Chính các anh giúp họ dỡ xuống,
dính dáng gì đến tôi? Người ta đem rượu thế nào thì tôi bán như thế. Nếu
không thích thì đừng mua!
Hóa ra vị thủ kho ở thành phố, trước khi chuyển rượu xuống huyện đã rút
rượu trong bình ra tùy thích, rồi đổ nước lọc vào; “Ở dưới huyện thì uống
thứ rượu này cũng thích lắm rồi!” Ớ kho huyện, trước khi chuyển rượu về
các làng, người ta lặp lại y nguyên hành động trên: “ở các làng thì được
rượu này cũng thú lắm rồi!” Dọc đường, những người lái xe và công nhân
bốc dỡ lại hút ra mấy lít uống cho ấm người, cho đỡ mệt đường xa, rồi họ
lại lấy nước nguồn trong khe núi đổ bù vào; kết quả trong thùng không biết
là một thứ rượu bị pha nước hay là một thứ nước bị pha rượu!
Cũng vậy, khi đọc một số bài thơ, không sao biết được cái gì trong đó
chiếm nhiều hơn - Thơ hay là những lời sáo rỗng. Những bài thơ như vậy là
con đẻ của các nhà thơ lười biếng, những người không đủ kiên nhẫn để lao
động một cách chuyên cần. Nhưng dòng suối chảy xiết ít khi đổ thẳng ra
biển. Kẻ đi bộ lười nhác ít khi đến được Mếcka. Nếu hai kỵ sĩ buộc phải
ngồi chung một ngựa, họ phải dựa vào nhau. Tài năng và lao động cũng
ngồi chung một ngựa.
Abutalíp nói: Tài năng và lao động cần kết hợp trong bài thơ như lưỡi
dao găm với vỏ bao.