Có lần cả tôi cũng được làm “chú lừa cầu mưa”. Dân làng té nước vào tôi
nhiều đến mức lượng nước ấy có lẽ cũng phải bằng nửa trận mưa chứ chẳng
chơi!
Nhưng trời cao ít khi làm theo những lời bài hát của chúng tôi. Mặt trời
vẫn chói chang, gay gắt. Nó hun nóng cả miền Đaghextan như chụp lên tất
cả một cái lồng lửa khổng lồ. Mặt trời đem tới sự phiền muộn. Và chúng tôi
đã từng dùng chữ “Mặt trời buồn bã”. Cả miền đất ấy đã nằm dưới mặt trời
buồn bã hàng trăm, hàng nghìn năm. Tính trên khắp cả châu Âu thì làng
nhỏ Guníp miền Đaghextan là nơi có số ngày nắng cao nhất. Làng quê
Xađa của tôi cũng không chịu thua kém. Và các làng khác cũng vậy. Không
phải ngẫu nhiên mà người ta gọi đó là “Những làng khát nước”
Tôi nhớ lại gương mặt bơ phờ của mẹ tôi khi bà trở về nhà với một bình
nước trên lưng và một bình nước cầm tay. Cách làng ba cây số mới có
nước.
Tôi nhớ lại gương mặt rạng rỡ của mẹ tôi, khi mưa xuống, khi mặt đất trở
nên ướt át, nước chảy xối xả trên máng tôn, và mấy chiếc chum đặt dưới
máng đầy ắp nước - nước tràn ra khỏi chum.
Tôi nhớ lại bà già lưng còng tên là Khabibát. Sáng nào bà cũng vác
thuổng trên vai đi ra ngoài làng, hôm đào chỗ này, hôm đào chỗ khác, khao
khát tìm được nước, và lúc nào bà cũng đi tìm kiếm nó.
Mọi người đều biết rằng bà cố công vô ích, nhưng không một ai nói ra
điều đó với bà: chỉ có tôi, một đứa trẻ hấp tấp bộp chộp, đã có lần hỏi bà:
-Bà Khabibát ơi, bà cố công vô ích thôi bà ạ, bà cứ làm thế làm gì cho phí
sức, ở đây chẳng có tí nước nào đâu!
Bố tôi rất giận tôi về chuyện đó.
- Nhưng quả thật là không có nước cơ mà bố!