Nhân dân chúng tôi, đất nước nhỏ bé của tôi, mỗi cuốn sách của tôi cũng
đều có hai người mẹ.
Người mẹ thứ nhất là miền Đaghextan thân yêu. Nơi đây tôi đã sinh ra,
nơi đây lần đầu tiên tôi đã nghe thấy tiếng nói quê hương, đã học nói thứ
tiếng ấy và tiếng nói ấy đã thấm vào máu thịt tôi. Nơi đây lần đầu tiên tôi
được nghe những bài ca quê hương và lần đầu tiên tôi cất tiếng hát. Nơi đây
lần đầu tiên tôi cảm được mùi vị của nước và bánh mỉ. Đã bao lần hồi bé tôi
bị đá sắc cứa vào da thịt, nhưng rồi nước và cỏ cây của miền quê đã làm
liền lại các vết thương của tôi. Người miền núi nói: không có bệnh nào mà
ở miền núi chúng tôi không tìm được cây thuốc chữa.
Người mẹ thứ hai của tôi là nước Nga vĩ đại, người mẹ thứ hai của tôi là
Matxcơva. Người đã dạy dỗ tôi, chắp cánh cho tôi, đưa tôi lên con đường
lớn, chỉ cho tôi những chân trời bao la, chỉ cho tôi cả thế giới.
Tôi mang nặng lòng biết ơn của một người con trước hai người mẹ ấy.
Hai tấm thảm, hai tấm chân dung Makhơmút và Puskin được treo trên
tường nhà tôi. Trong những tập thơ Blốc còn mát rượi những đêm trắng
Pêterbua, tôi đã để vào đầy những bông hoa núi thắm đỏ miền Avar.
Hai người mẹ như đôi cánh, như hai bàn tay, hai con mắt, hai bài ca. Bàn
tay hai người mẹ đã xoa đầu tôi, và beo tai tôi, những khi cần thiết. Hai
người mẹ đã lên dây cho cây đàn panđur của tôi. Mỗi người lên một dây.
Hai người mẹ đã nâng tôi lên cao, và từ trên vai mẹ tôi đã nhìn thấy nhiều
điều trên thế giới mà tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy nếu không được nâng
lên cao. Như con chim ưng khi bay, làm sao biết được cảnh nào cần hơn,
quý hơn với nó, tôi cũng không biết được người mẹ nào thân thiết với tôi
hơn.
Trước đây người miền núi chữa tất cả các bệnh chỉ toàn bằng cỏ cây và
nước. Họ tin vào các ông lang. Thật ra đã có những chuyện ông lang đến
giờ nhân dân vẫn còn kể lại. Mấy ông lang này khi chữa bệnh đau đầu, đã
bắt gia đình phải mổ một con cừu đen.